“Gió đưa hoa cải về đồi
Vườn em chúm chím cười rơi trăng rằm Ô tô phóng vẹt tháng năm
Mặc con đò nhỏ cứ nằm bến mơ”
Thơ ngũ ngôn : Đây là loại thơ chiếm ưu thế lớn nhất trong các thể thơ truyền thống được nhà thơ sử dụng. Có 43/171 bài thơ được làm theo thể thơ ngũ ngôn. Có thể lý giải điều này bởi thể thơ này thể hiện sự cẩn trọng, am hiểu văn học truyền thống của nhà thơ. Vốn là một nhà giáo chuyên về mảng văn học trung đại nên tính chất nghề nghiệp đã ảnh hưởng rõ trong quá trình sáng tác của tác giả. Thể thơ này lời thơ ngắn, hình ảnh thơ chắt lọc, ngôn ngữ hàm súc, không kể lể dài dòng.
Vẻ đẹp lãng mạn của cô gái sơn nữ giữa chốn Hà Thành đem lại cho nhà thơ bối rối, bất ngờ và ngây ngất, vừa hư vừa thực: Em đi ra từ nắng/Em bước xuống từ mây/Nắng vàng ôm mây trắng/Rượu mùa hè nồng say, (Gặp Sơn nữ giữa Hà Thành).
Có khi lại thể hiện sự chiêm nghiệm, suy ngẫm của nhà thơ về cuộc đời :
“Đi mãi vòng năm tháng Chưa hiểu mấy lẽ đời
Có thể bạn quan tâm!
- Thơ Ma Trường Nguyên Giàu Tính Dân Tộc Trong Hình Thức Thể Hiện
- Thơ Võ Sa Hà - Hồn Thơ Hóa “Cánh Chim Về Núi”
- Thơ Võ Sa Hà Linh Hoạt Trong Hình Thức Thể Hiện
- Những Tìm Tòi, Thể Nghiệm Về Hình Thức Nghệ Thuật Thứ Nhất: Hình Ảnh Thơ
- Tạ Văn Sĩ (2008), “Võ Sa Hà Nặng Lòng Quê Núi”, Trang Báo Điện Tử 360Plus, Ngày 13/07/2008.
- Thơ Thái Nguyên thập niên đầu thế kỷ XXI - 17
Xem toàn bộ 157 trang tài liệu này.
Bay hoài theo mơ mộng Không kịp giọt trăng rơi”
(Năm mới 2007)
Thơ tự do : Thể thơ tự do chiếm ưu thế nhiều nhất trong ba tập thơ : “Cánh chim về nú”, “Ngựa đá”, “Lửa trắng”. Có 75/171 bài thơ được làm theo thể tự do. Đây là điều dễ hiểu bởi với thể thơ này, nhà thơ được giải phóng về mặt cảm xúc. Khi kể về những kỷ niệm buồn đau, Võ Sa Hà sử
dụng nhiều câu thơ dài để thể hiện mạch tuôn trào của cảm xúc và góp phần thể hiện không khí huyền thoại cho bài thơ :
“Lời ca rơi từng giọt xuống hồn Lời ca làm bải hoải cả trăng non
Không biết cụ bà còn hát được bao nhiêu nữa Cụ bà hát phì phò tiếng thở
Ánh lửa đỏ lừ đôi tròng mắt mờ sương”
(Bài hát cũ)
Có khi những câu thơ ngắn được nhà thơ sử dụng gợi ra tiếng súng nổ và không khí ác liệt nơi chiến trường khi viết về chiến tranh:
“Oàng Bay mũ Hú vía
Tặc!tặc!tặc
…Đì đùng!Đì đùng!
…Pằng!Pằng!Pằng!”
(Tiếng súng nổ)
Cũng có khi tác giả sử dụng những câu thơ tự do trong bài “Núi Voi”, gợi ra sự trăn trở của lòng người, sự thăng trầm của lịch sử, sức sống tự nhiên và mạnh mẽ của văn hóa:
“Núi Voi bắt đầu đi Núi Voi đi về đâu
..Lửa ngút trời ATK
Pháp bại ngày chiến khu”
Cũng có khi nhà thơ tách câu thơ ngắn để nhấn mạnh, miêu tả nhân vật “em” một cách dí dỏm, mới lạ
“Em
Bắp chân căng hơn lốp ô tô Vai nổi cục gáy to”
(Em)
Bước đầu khảo sát, có thể nhận thấy, Võ Sa Hà không ngừng tìm tòi, thể nghiệm những thể thơ. Yếu tố truyền thống vẫn được giữ gìn và yếu tố mới của thơ hiện đại được nhà thơ tìm tòi và sáng tạo. Đó là sự nỗ lực không ngừng nghỉ của một nhà giáo vốn giành nhiều đam mê cho thơ.
3.3. Nhà thơ Nguyễn Thúy Quỳnh
3.3.1. Giới thiệu khái quát về nhà thơ Nguyễn Thúy Quỳnh
Nguyễn Thúy Quỳnh sinh năm 1968 tại Lạng Sơn, nhưng quê quán ở Nam Định. Chị tốt nghiệp Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Việt Bắc, Khoa Kinh tế Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Chị là Hội viên Hội nhà báo Việt Nam, Hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Hiện nay chị là Thạc sĩ Văn học, đảm nhiệm chức vụ Phó chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Thái Nguyên, Tổng biên tập Báo Văn nghệ Thái Nguyên.
Từ khoảng những năm 1990, Nguyễn Thúy Quỳnh đã sáng tác nhiều và có thơ đăng trên báo. Cho đến nay, chị đã xuất bản 2 tập thơ: “Giá mà em từ chối” (Nxb Văn hóa dân tộc, H.2002), “Mưa mùa đông” (Nxb Hội nhà văn, H.2004). Trong hành trình sáng tác đó, chị đã được ghi nhận bằng những giải thưởng văn học quan trọng: Giải thưởng thơ của Báo Văn nghệ Quân đội; Giải nhì về thơ của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam v.v..
3.3.2. Thơ Nguyễn Thúy Quỳnh giàu xúc cảm, suy tư về trái tim mình và những trắc trở cuộc đời
Hành trình sáng tạo của nhà thơ thường có những sự vận động, biến chuyển qua những chặng khác nhau. Nó chính là biểu hiện sự nỗ lực của nhà thơ trong quá trình khám phá thế giới và tìm đến bản ngã. Nhà thơ Nguyễn Thúy Quỳnh cũng có một hành trình như thế. Có hai mạch cảm hứng nhận biết được trong thơ chị là cảm hứng về tình yêu và cảm hứng thế sự. Theo năm tháng, Thúy Quỳnh tạo nên định hướng cho sáng tác của mình đó là ý thức trách nhiệm công dân và cao hơn là ý thức và chức phận của người sáng tác.
Qua khảo sát ban đầu, chúng tôi nhận thấy nhà thơ Nguyễn Thúy Quỳnh dành nhiều suy tư cho mảng đề tài tình yêu. Thơ viết về tình yêu của chị chưa nhiều xúc cảm, suy tư về „„giọt nắng trái tim mình‟‟.
Tập thơ „„Giá mà em từ chối‟‟ của chị có 30/42 bài viết về đề tài tình yêu. Có thể thấy, đó là một người yêu đến đắm say, mãnh liệt.
“Đợi anh, em đợi anh Giữa trăm vòng tơ rối Vẫn cháy lòng khát đợi Bởi một điều: em yêu”
(Đợi)
Sự chờ đợi trong tình yêu khiến con người có cảm giác một phút dài như cả thế kỷ, vậy mà nhân vật „„em‟‟ trong thơ chị vẫn nhẫn nại đợi chờ người yêu. Động lực thúc đẩy chỉ bởi một điều duy nhất đó là : „„em yêu‟‟.
Ngay cả khi biết rằng người yêu sẽ mãi xa, phải đơn côi ở lại một mình, phải hóa thân thành „„chiếc lá mồ côi‟‟, thế nhưng tình yêu và niềm hy vọng vẫn không hề vơi cạn. Nhân vật trữ tình vẫn cồn cào, khao khát mong đợi điều kỳ diệu xảy ra:
“Thềm cỏ xanh hoang dại với mây trời
Niềm khao khát cồn cào giữa đêm anh chợt hiện Đêm không vách ngăn, thói đời xin quên hết
Em chân thực dịu dàng, xin chia nỗi riêng anh”
(Đêm thành Tuyên )
Người thơ ấy làm thơ để giãi bày những cung bậc tâm trạng trong tình yêu: Có lúc cồn cào và hụt hẫng đến thắt lòng nhưng chủ yếu là nỗi xót xa, tiếc nuối khôn nguôi về những điều đã mất. Đó là một sự tiếc nuối, bâng khuâng:
“Giá mà em từ chối
...Ngày yêu anh vội trao Hẳn giờ bao năm tháng Mình còn đầy trong nhau”
(Giá…)
Tình yêu không chỉ có niềm vui mà có cả khổ đau và bất hạnh. Như một lẽ tự nhiên, người phụ nữ luôn phải hứng chịu tất cả. Những phút khổ đau bất hạnh ấy thường đem đến cho con người những nỗi niềm và xúc cảm tột đỉnh cần được xẻ chia. Đó là sự đau đớn vì mất đi một nửa yêu thương, sự lạnh lẽo đáng sợ trong cô đơn. Ám ảnh nhất trong thơ Thúy Quỳnh là nỗi cô đơn. Hãy nghe chị bộc lộ nỗi cô đơn trong tình yêu :“Nửa chỗ ngồi không anh/ ...Nửa đường về không anh/ ..Nửa đêm dài không anh/ Run một quầng gối trắng”- (Nửa).
Cô đơn là nỗi đau khổ nhất của người phụ nữ trong hành trình kiếm tìm tình yêu. Nhất là đối với một hồn thơ yêu tha thiết, mãnh liệt. Bởi càng yêu nhiều thì khi xa cách, đổ vỡ càng cảm thấy cô đơn, trống trải gấp bội lần. Thúy Quỳnh miêu tả nỗi cô đơn thật xúc động. Nếu như bốn câu thơ đầu, nỗi cô đơn chỉ được bộc lộ một cách giản đơn : lạnh cả miền trống vắng/đành câm lặng thì đến những câu thơ sau, nỗi cô đơn ấy đã thực sự tác động đến tâm can con người : run một quầng gối trắng, đó là sự run rẩy, lạnh lẽo đến mức tê cóng trái tim con người.
Đọc thơ Thúy Quỳnh, ta thấy, tình yêu luôn phải gặp những éo le, trắc trở vì sự nông nổi, vì là người đến muộn, vì một người đã phải sang ngang... Bởi vậy, thơ chị chứa nhiều tâm sự buồn trong tình yêu. Buồn vì "Phố núi chông chênh mình em lạc bước/ Lối cũ trăng gấy tấm tức kỷ niệm rơi‟‟. Buồn
vì: „„Hạnh phúc như con tàu, em thành kẻ đến sau/Phận trốn vé làm sao về ga cuối‟‟. Buồn vì „„Đã quá muộn‟‟.
Đau đớn nhất là khi người thơ ấy tự nghĩ về mình:
“Đã đành
Duyên nợ thì mang Nghĩ mình
Chưa nụ đã tàn Mà đau…”
(Tặng…)
Tuy tình yêu mang đến cho con người nhiều nỗi buồn, đau khổ nhưng thơ Nguyễn Thúy Quỳnh vẫn có niềm tin yêu. Bởi trái tim ấy yêu mê đắm đến mức nhìn vào đâu cũng thấy yêu thương:
“Đêm nay
Những ngôi sao dìu nhau vào vũ trụ Trong em bừng nỗi nhớ cỏ may”
(Thứ bảy)
Đây là điều đáng quý ở hồn thơ Thúy Quỳnh. Mất đi người yêu, chịu cảnh “trắng tay mà không được khóc”, biết chắc rằng người yêu sẽ không bao giờ xuất hiện vậy mà người thơ ấy vẫn không mất đi niềm tin. Vẫn mong được gặp để nói lời yêu thương, trái tim vẫn bừng nỗi nhớ, vẫn khao khát được hạnh phúc như ngôi sao trên trời kia.
Tình yêu trong thơ Thúy Quỳnh luôn đằm sâu và đôn hậu:
“Trước luật lệ, em cúi đầu thua cuộc Không lẽ giành anh nốt nửa phần đời
…Em xuống tàu thôi, trả duyên nợ về trời Trả ghen tuông cho người đàn bà ấy”
(Thơ viết trên tàu)
Tình yêu đã mang đến cho thơ Thúy Quỳnh nhiều cung bậc cảm xúc: có khao khát mạnh liệt, có cô đơn, có nhớ nhung, có niềm tin yêu và có cả ghen tuông. Được người yêu dành cho tình cảm nồng cháy khiến chị có thể kiêu hãnh uy quyền nhưng mang thân phận của kẻ đến muộn, Thúy Quỳnh chấp nhận thua cuộc. Lý do người thơ ấy đưa ra bởi “luật lệ” nhưng có lẽ cao hơn là bởi chị không muốn giành giật hạnh phúc từ tay người đàn bà khác. Tình yêu đến sau dù có là duyên nợ nhưng chị cũng chấp nhận, “trả” nó về trời. Trái tim yêu thương của người từng trải đã can đảm, vượt qua ích kỷ thường tình và dùng lý trí để “trả” mọi thứ về chố cũ.
Nhà thơ, nhà nghiên cứu Vũ Nho đã có lí khi nhận xét về thơ Nguyễn Thúy Quỳnh: “Nhưng ấn tượng về thơ chị không phải chỉ là cảnh sắc thiên nhiên mà chủ yếu là một tâm hồn, một con người say đắm, mạnh mẽ, quyết liệt mà đôn hậu” -Vũ Nho, 33 gương mặt thơ nữ, Nxb Hội Nhà văn, 2009.
Thơ Thúy Quỳnh không chỉ là nơi để chị giãi bày, suy tư về tình yêu mà còn là nơi để chị chiêm nghiệm, suy tư về cuộc đời. Đây là sự phát triển tất yếu đối với nhà thơ Thuý Quỳnh mà nó cũng là sự vận động tất yếu của thơ trong tiến trình văn học dân tộc.
Trước hết, thơ Thúy Quỳnh là nơi giãi bày, „„ghi‟‟ lại những ký ức, những kỷ niệm đáng nhớ. Nó chủ yếu là những câu chuyện, những con người để lại nhiều ấn tượng và xúc cảm trong lòng tác giả. Như một quy luật tự nhiên của tình cảm, tác giả giãi bày ra những rung cảm ấy. Có lúc nhà thơ gửi vào Na Rì: “Bảng lảng sương giăng ký ức xa xôi/Đèo Áng Toòng như mối tình trắc trở”- (Ghi ở Na Rì)
Có khi, nhà thơ gửi lòng mình trong “Đêm thành Tuyên”:
“Sông Lô đêm nay trôi một cánh thuyền tình Một lần lỡ, một đời không tới bến
Mai về Thái giữa một trời ly biệt
Thành Tuyên ơi xin ngậm mối duyên này”
Mỗi vùng đất đi qua luôn để lại trong tâm trí nhà thơ những ấn tượng đậm nét, khắc khoải…
Không chỉ vậy, những con người bất chợt gặp gỡ cũng vận vào nhà thơ bao suy tư. Có khi là những nhắn nhủ “Gửi người xa xứ”:
“Bây giờ thành người trên ấy Nước non đâu cũng mình thôi Bao giờ chạnh lòng xa xứ Đóng bè thả nhớ về xuôi”
“Ở giai đoạn đầu, tương tự không ít người làm thơ khác, Nguyễn Thúy Quỳnh làm thơ như để giãi bày, như một cách thức ghi nhớ về các kỷ niệm… Tuy nhiên ở giai đoạn đầu, thơ Nguyễn Thúy Quỳnh đã manh nha phát lộ một số dấu hiệu cho thấy chị đang cựa quậy tìm kiếm một cái gì đó giúp chị đi vào chiều sâu cảm xúc, như chị không bằng lòng với nỗi niềm riêng tư và kỷ niệm”[36, tr.28].
Càng về sau, thơ chị phức tạp và đa chiều hơn. Nó đi từ phía “cảm”
đến phía “nghĩ”
“Từ ấy, tôi mang theo bên mình giấc mơ viên sỏi nhỏ ngày qua ngày, đêm thay đêm, ủ nó bằng hơi thở,
rồi sống, rồi yêu, chờ một ngày mặt trời không đến nữa, để nghe lời sỏi hát
rằng, làm sao mà Trịnh biết, bia đá cũng đau…”
(Nhớ Trịnh)
Nghe nhạc Trịnh nhưng nhà thơ không dừng lại ở sự xúc động, mà đi xa hơn, nghĩ về kiếp người đau nỗi đau sỏi đá. Vậy là, thơ và nhạc gặp nhau ở những nỗi đau mang tính phổ quát con người.
Chính nhà thơ cũng có lúc đã thừa nhận sau nửa đời người mà vẫn bất lực trước những điều không ngờ trước cuộc sống: