Kiện Toàn Cơ Cấu Tổ Chức, Nâng Cao Năng Lực, Trình Độ Của Đội Ngũ Thẩm Phán, Thư Ký Trong Giải Quyết Án Hn&gđ Ở Tỉnh Thái Nguyên

khi xã hội ngày càng phát triển thì càng có nhiều quan hệ xã hội cần phải điều chỉnh bằng pháp luật. Thời gian vừa qua, ở Việt Nam đã xuất hiện nhiều vấn đề mà pháp luật chưa dự liệu hết được những tình huống nảy sinh trong cuộc sống, bởi vậy quá trình áp dụng trên thực tế gặp không ít khó khăn. Để hoạt động ADPL của TAND trong giải quyết án HN&GĐ được chính xác và có tính thuyết phục đòi hỏi hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật HN&GĐ nói riêng ngày càng hoàn thiện hơn nữa, không chỉ pháp luật nội dung mà cả pháp luật tố tụng. Đồng thời, trong quá trình ADPL người thẩm phán phải khẳng định và lựa chọn QPPL phù hợp nhất cho từng trường hợp tranh chấp cụ thể, phải phân tích sâu sắc, đánh giá đúng bản chất của vụ án HN&GĐ một cách đầy đủ, toàn diện, khách quan, trung thực. Phải dựa vào những chứng cứ và tình tiết rò ràng để làm cơ sở cho những phán quyết của HĐXX. Bên cạnh đó, cần tiếp tục hoàn thiện các văn bản pháp luật khác có liên quan đến hoạt động ADPL của TAND trong giải quyết án HN&GĐ như mức thu chi tiền định giá tài sản, tiền giám định… và việc yêu cầu các cơ quan phải phối hợp với tòa án trong quá trình giải quyết án HN&GĐ.

Trong quá trình ADPL, có những vấn đề mà tòa án còn chưa thống nhất, còn gặp phải nhiều vướng mắc. Vì vậy, nhằm tạo ra một môi trường pháp lý lành mạnh, giúp cho việc ADPL được dễ dàng thì hệ thống pháp luật cần được hoàn thiện hơn. Hiện nay, nội dung một số quy phạm vẫn gây khó khăn đối với quá trình ADPL trong giải quyết án HN&GĐ cũng như còn thiếu một số quy phạm trong quá trình ADPL này, cụ thể như:

- Vấn đề thực hiện chế độ hai cấp xét xử: Được quy định tại Điều 17 BLTTDS, bản án, quyết định sơ thẩm khi bị kháng nghị thì phải được tiến hành xét xử phúc thẩm và bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mà phát hiện có vi phạm hoặc có tình tiết mới thì được xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Như vậy, một vụ án HN&GĐ nếu có kháng cáo, kháng

nghị được giải quyết qua hai cấp xét xử sơ thẩm, phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm, tái thẩm. Nhưng trên thực tế có nhiều vụ án HN&GĐ được xét xử nhiều lần, qua nhiều cấp tòa án. Về vấn đề này, BLTTDS vẫn chưa giải quyết.

Khoản 3, Điều 275 BLTTDS quy định: HĐXX phúc thẩm có quyền hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm để giải quyết lại vụ án.

Khoản 3, Điều 297 quy định: Hội đồng giám đốc thẩm có quyền hủy bản án. Quyết định có hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm hoặc xét xử phúc thẩm lại. Thực hiện điều khoản này, khi giải quyết án HN&GĐ các cấp xét xử sẽ phải mở phiên tòa sơ thẩm hoặc phúc thẩm mới. Nghĩa là quyền hủy án để xét xử lại của cấp phúc thẩm, giám đốc thẩm sẽ dẫn đến hậu quả một trình tự tố tụng được quay lại từ đầu. Đó là chưa kể đến thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.

Ủy ban Thẩm phán TAND cấp tỉnh (đối với những bản án quyết định có hiệu lực pháp luật của TAND huyện bị kháng nghị). Tòa dân sự, TAND (đối với những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND cấp tỉnh bị kháng nghị) và Hội đồng Thẩm phán TANDTC (đối với những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của tòa dân sự bị kháng nghị) - Điều 391, BLTTDS.

Với cơ chế hủy án để xét xử lại và xét xử theo nhiều cấp như vậy, nếu giải quyết vụ án HN&GĐ phức tạp có thể kéo dài vài năm. Những điểm hạn chế này là nguyên nhân gây nên tình trạng án bị dây dưa, kéo dài, như những năm trước đây, khi thực hiện pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, có những vụ án đã kéo dài hàng chục năm. Trong giải quyết các vụ án HN&GĐ khi có tranh chấp phức tạp về tài sản, chắc chắc Tòa án không thể khắc phục được, để rồi một thực trạng án tồn đọng nhiều, xét xử kéo dài qua nhiều cấp.

Do đó, để đảm bảo ADPL giải quyết án HN&GĐ trong cả nước cũng như ở Toà án Thái Nguyên, Nhà nước cần sửa đổi, bổ sung những điểm bất

cập như: ấn định số phiên tòa tối đa cho một vụ án; không quy định cơ chế hủy án để xét xử lại của Toà án cấp trên mà sẽ ra bản án, quyết định mới chứ không cho Tòa án cấp dưới điều tra, xét xử lại bằng một phiên tòa mới như trước đây. Đối với những vụ án có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng như điều tra sơ sài, bỏ sót người tham gia tố tụng hoặc ADPL sai mà Tòa án cấp trên không thể khắc phục thì yêu cầu Tòa án cấp dưới trực tiếp làm công việc cần thiết bổ sung những thiếu sót đó để Tòa án cấp trên xét xử và ra bản án mà không nhất thiết phải huỷ án cấp huyện.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.

- Bổ sung quy định công nhận án lệ là một loại nguồn của pháp luật.

Việt Nam là một nước thuộc hệ thống pháp luật thành văn. Tuy nhiên, trên thực tế cho thấy, bất kỳ một quốc gia nào dù kinh nghiệm lập pháp có tiên tiến đến đâu thì văn bản cũng không thể bao quát được hết những vấn đề và tình huống pháp lý nảy sinh trong thực tiễn. Thời gian qua, ở Việt Nam đã bắt đầu quan tâm đến án lệ. Hiện có rất nhiều quan điểm khác nhau về án lệ, theo đó, có quan điểm cho rằng: áp dụng nguyên tắc luật tương tự, hay các kết luận của Chánh án TANDTC trong báo cáo tổng kết ngành TAND hàng năm...cũng được hiểu như “án lệ”. Tuy nhiên, cách lập luận như thế là chưa chính xác. Qua nghiên cứu, tham khảo, chúng tôi đồng thuận với một số chuyên gia pháp luật khi cho rằng: “Án lệ là bản án, quyết định của tòa án chứa đựng sự giải thích, áp dụng pháp luật, được tòa án vận dụng giải quyết vụ án có nội dung tương tự”[20, tr.12].

Áp dụng pháp luật của Tòa án nhân dân trong giải quyết án hôn nhân và gia đình qua thực tiễn tỉnh Thái Nguyên - 11

Như vậy, qua khái niệm trên, có thể thấy ưu điểm lớn nhất của án lệ là góp phần giải thích và ADPL trong từng trường hợp cụ thể. Để triển khai, thực hiện chủ trương của Đảng theo tinh thần cải cách tư pháp về phát triển án lệ, ngày 31/10/2012, chánh án TANDTC đã có Quyết định số 74/QĐ-TANDTC về việc phê duyệt đề án “phát triển án lệ của TANDTC”. Quyết định này khẳng định, xây dựng án lệ là Quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán

TANDTC và Quyết định giám đốc thẩm của các Tòa chuyên trách TANDTC được Hội đồng thẩm phán TANDTC thông qua. Tuy nhiên, theo chúng tôi, cần mở rộng hơn nữa đối tượng bản án, quyết định của Tòa án cấp dưới. Bởi lẽ, về nguyên tắc, Tòa án cấp dưới phải tuyệt đối tuân thủ án lệ của TAND cấp trên và của TANDTC. Tuy nhiên, thực tế áp dụng án lệ của một số nước trên thế giới cho thấy, có thể xảy ra khả năng Tòa án tối cao không có án lệ về vấn đề liên quan mà lại có một bản án nào đó đã xảy ra ở một Tòa án cấp dưới và bản án, quyết định này đã có hiệu lực thi hành (không bị kháng cáo, kháng nghị...). Bởi vậy, theo chúng tôi, phải tìm ra phương hướng thích hợp nhất để xử lý tình huống. Có thể bản án, quyết định này không bắt buộc phải tuân theo nhưng để tham khảo cũng là điều hợp lý cần cân nhắc.

Để trở thành án lệ, theo chúng tôi, một bản án, quyết định của Tòa án phải hội tụ đủ những điều kiện sau đây:

+ Nội dung của bản án, quyết định giải quyết một vấn đề pháp lý đặt ra chưa được văn bản QPPL điều chỉnh hoặc có quy định nhưng còn chung chung, thiếu tính cụ thể hoặc có mâu thuẫn.

+ Trong bản án phải thể hiện quan điểm, lập luận đánh giá chứng cứ đường lối giải quyết của Thẩm phán về các vấn đề pháp lý được đặt ra.

+ Bản án, quyết định đó phải là bản án, quyết định sau cùng và đã có hiệu lực pháp luật giải quyết vấn đề pháp lý mới nảy sinh chưa được văn bản QPPL điều chỉnh hoặc có quy định nhưng còn chung chung, thiếu tính cụ thể hoặc có mâu thuẫn.

+ Bản án, quyết định đó được Hội đồng thẩm phán TANDTC thông qua (Hội đồng thẩm phán TANDTC biểu quyết, nhất trí bản án, quyết định đó là án lệ). Đây là điều kiện quan trọng, vì thỏa mãn điều kiện này nghĩa là bản án, quyết định đó đã được Hội đồng thẩm phán TANDTC thừa nhận tính đúng đắn, tính khuôn mẫu.

+ Các bản án, quyết định phải được công bố và hệ thống hóa. Việc công bố và hệ thống hóa án lệ phải tuân theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ. Đây là một hoạt động quan trọng để một bản án, quyết định trở thành án lệ.

- BLTTDS cần thiết phải bổ sung thêm thẩm quyền cho HĐXX phúc thẩm.

Sửa bản án HN&GĐ cấp sơ thẩm là một trong những thẩm quyền của tòa án cấp phúc thẩm được quy định tại Khoản 2, Điều 275 và quy định chi tiết tại Điều 276 BLTTDS. Theo đó, HĐXX phúc thẩm sửa một phần hoặc toàn bộ bản án sơ thẩm nếu Tòa án cấp sơ thẩm quyết định không đúng pháp luật trong các trường hợp: Việc chứng minh và thu thập chứng cứ đã được thực hiện đầy đủ và theo đúng quy định tại chương VII BLTTDS năm 2004 hoặc chưa được thực hiện đầy đủ ở cấp sơ thẩm nhưng tại phiên tòa phúc thẩm đã đã được bổ sung đầy đủ. Trong một số trường hợp khác như nếu bản án HN&GĐ sơ thẩm quyết định không đúng pháp luật như xác định sai quan hệ pháp luật, đối tượng tranh chấp, tòa án tính sai mức bồi thường, tính sai án phí... thì pháp luật lại chưa quy định thẩm quyền cho HĐXX phúc thẩm. Như vậy, cần phải quy định cụ thể thẩm quyền cho HĐXX phúc thẩm tại Điều 275, 276 BLTTDS năm 2004.

3.2.3. Kiện toàn cơ cấu tổ chức, nâng cao năng lực, trình độ của đội ngũ thẩm phán, thư ký trong giải quyết án HN&GĐ ở tỉnh Thái Nguyên

Để nâng cao hiệu quả của ADPL trong giải quyết án HN&GĐ của TAND ở tỉnh Thái Nguyên, yếu tố con người cũng đóng vai trò quyết định, đó là những Thẩm phán, chủ thể trực tiếp ADPL trong quá trình giải quyết án HN&GĐ. Các chủ thể ADPL muốn thực hiện tốt vai trò của mình và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao thì họ phải được làm việc trong một cơ cấu tổ chức được sắp xếp một cách khoa học và hợp lý.

Việc xác định mô hình tổ chức TAND đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay là một vấn đề cấp thiết. Từ

kinh nghiệm xây dựng Tòa án của nhiều nước trên thế giới chúng ta thấy, ở các nước có lãnh thổ nhỏ, hẹp như ở nước ta thì việc xây dựng hệ thống tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào cấp hành chính lãnh thổ là một lựa chọn khôn ngoan hơn cả, nó phù hợp với tình hình thực tế của Việt Nam về điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội cũng như trình độ của cán bộ tòa án.

Để hoạt động ADPL đạt được hiệu quả tốt, TAND cấp huyện ở Thái Nguyên cần có kế hoạch đề nghị bổ sung thêm số lượng Thẩm phán trực tiếp giải quyết án HN&GĐ để đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ mới. Ngoài ra, các TAND cấp huyện cũng phải chuẩn bị nhân sự để thay thế những Thẩm phán đến tuổi nghỉ hưu, thường là những Thẩm phán giữ chức vụ quản lý là Chánh án, Phó chánh án và phải làm tốt công tác luân chuyển cán bộ giữa các TAND để đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.

Bên cạnh việc kiện toàn cơ cấu tổ chức cho các TAND ở tỉnh Thái Nguyên, để nâng cao hiệu quả và đảm bảo tính thống nhất về ADPL trong hoạt động giải quyết án HN&GĐ thì việc phát huy được nguồn nhân lực của tòa án sẽ là một giải pháp hiệu quả. Vì thế, đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ, thẩm phán chất lượng cao là điều cần thiết. Để làm tốt được điều đó, chế định thẩm phán hiện nay cần được hoàn thiện theo các giải pháp sau:

- Phải có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng Thẩm phán thường xuyên, chuyên sâu về nghiệp vụ đối với án HN&GĐ. Tổng kết công tác thực tiễn và học tập nghị quyết, chủ trương chính sách của Đảng một cách thường xuyên. Cần tạo điều kiện cho Thẩm phán trong nhiệm kỳ, có thời gian thích hợp để bồi dưỡng nghiệp vụ cập nhật những thông tin mới về khoa học pháp lý để họ không lạc hậu về kiến thức lý luận.

Hiện nay, số lượng vụ án HN&GĐ mà TAND ở tỉnh Thái Nguyên thụ lý là khá lớn, trong khi đó số lượng thẩm phán còn hạn chế (71 thẩm phán). Hơn nữa, do trình độ chuyên môn và tinh thần trách nhiệm của một số thẩm

phán còn chưa cao, chưa đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình hiện nay. Một số thẩm phán có bản lĩnh chính trị chưa rò ràng, phẩm chất đạo đức suy thoái nên việc thực hiện công tác còn chưa tốt. Hoạt động xét xử là một lĩnh vực ADPL rất phức tạp, bởi vậy, yêu cầu đặt ra là trong quá trình giải quyết các vụ án, thẩm phán không chỉ áp dụng đúng đắn pháp luật mà còn ADPL một cách sáng tạo. Do vậy, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ phải cao, đạo đức nghề nghiệp trong sáng, bản lĩnh chính trị phải vững vàng.

- Tăng cường bồi dưỡng cho Thẩm phán giải quyết án HN&GĐ những kiến thức pháp luật mới, kiến thức về quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, ngoại ngữ, tin học. Hàng năm tạo điều kiện cho các Thẩm phán, cán bộ thư ký đi thi học sau đại học để nâng cao trình độ.

- Để xây dựng đội ngũ cán bộ, thẩm phán chất lượng cao, tòa án cần thông qua cơ chế thi tuyển, bổ nhiệm, đào tạo và chế độ đãi ngộ phù hợp. Tòa án có thể mở rộng nguồn tuyển chọn thẩm phán, đối tượng tuyển chọn để bổ nhiệm thẩm phán không chỉ từ chính đội ngũ cán bộ ở tòa mà còn từ đội ngũ các chức danh tư pháp khác như điều tra viên, kiểm sát viên...hay những luật gia đã qua đào tạo nghề thẩm phán nhưng chưa được hành nghề. Thực hiện cơ chế thi tuyển để chọn thẩm phán, đây là một hình thức mà trên cơ sở kết quả thi tuyển có thể lựa chọn được nhiều thẩm phán có trình độ chuyên môn cao.

- Hiện nay, nhiệm kỳ của thẩm phán là 5 năm, hết nhiệm kỳ, thủ tục bổ nhiệm lại chức danh thẩm phán được tiến hành theo trình tự, thủ tục tương tự như bổ nhiệm lần đầu. Nhiệm kỳ ngắn và quy trình bổ nhiệm lại thẩm phán phức tạp đã tạo tâm lý không yên tâm cho thẩm phán khi thực hiện nhiệm vụ cũng như thẩm phán không có thời gian để tích lũy kinh nghiệm, trau dồi kiến thức thực tế. Bởi vậy, nên kéo dài nhiệm kỳ thẩm phán thêm một khoảng thời gian hợp lý như 10 hoặc trên 10 năm để họ yên tâm thực hiện nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên, cũng không nên quy định nhiệm kỳ của thẩm phán là suốt

đời, vì với chế độ đãi ngộ cao và sự ổn định như một số quốc gia hiện nay lại tạo cho thẩm phán tư tưởng sớm thỏa mãn với chỗ đứng của mình, không chịu tu dưỡng, rèn luyện để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.

- Cần có chế độ tiền lương, chính sách đãi ngộ phù hợp khác để có thể thu hút được nhiều thẩm phán có trình độ chuyên môn cao, tận tâm trong công tác. Đối với thẩm phán, cần được quy định hệ số lương riêng, cao hơn các đối tượng khác để đảm bảo cho họ có cuộc sống ổn định bằng chính đồng lương của mình cũng như có trách nhiệm hơn với việc nhận được một mức lương cao hơn thu nhập của những ngành nghề khác. Nhà nước nên có những chính sách giúp đỡ họ bằng nhiều hình thức khác nhau như tạo điều kiện cho họ mua nhà ở, phương tiện đi lại, sinh hoạt theo hình thức trả góp hoặc vay tiền với lãi suất thấp, khấu trừ dần vào lương với thời hạn dài.

- TAND ở tỉnh Thái Nguyên cần mở thêm nhiều lớp tập huấn hơn nữa để đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ trong ngành, giúp họ nâng cao được trình độ chuyên môn và tu dưỡng thêm về phẩm chất đạo đức. Tòa án có thể thường xuyên tổ chức các buổi họp để trao đổi kinh nghiệm giải quyết các vụ án giữa các thẩm phán để từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm nhằm khắc phục những vướng mắc còn gặp phải trong quá trình ADPL để giải quyết án HN&GĐ.

Theo chúng tôi, trên đây là những giải pháp vô cùng quan trọng và hiệu quả nhằm tạo ra sự an tâm cho thẩm phán về cuộc sống của bản thân và gia đình, tạo cho họ sự yên tâm, toàn tâm, toàn ý phụng sự nghề nghiệp, vô tư, khách quan và độc lập thật sự trong hoạt động xét xử.

3.2.4. Nâng cao năng lực trình độ chuyên môn của HTND

HTND nhân dân là chế định tiến bộ của pháp luật Việt Nam. Lần đầu tiên được Hiến pháp năm 1946 ghi nhận với tên gọi Phụ thẩm nhân dân. “Phụ thẩm nhân dân được tham gia góp ý kiến nếu về việc tiểu hình và cùng quyết định với Thẩm phán là việc đại hình” (Điều 65 Hiến pháp năm 1956). Hiện

Xem tất cả 113 trang.

Ngày đăng: 26/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí