Thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương - 11

một phương tiện trào phúng đặc sắc và đầy hiệu quả để phơi bày sự giả dối của giai cấp thống trị.

Chúng ta thấy, cùng thời với Xuân Hương còn có một số tác giả khác cũng nói đến sắc dục của giai cấp phong kiến, như Nguyễn Gia Thiều với Cung oán ngâm khúc, Nguyễn Du với Đoạn trường tân thanh. Nhưng điều đặc biệt ở đây là thái độ của các tác giả, cách sử dụng các phương tiện nghệ thuật. Nói đến quan lại, các giai cấp phong kiến, đặc biệt là vua chúa, các tác giả khác thường giữ thái độ dè dặt, né tránh. Họ bị ràng buộc bởi chữ trung quân. Viết về những loại người này, bên cạnh việc chê là khen, bên cạnh xấu là tốt, ngôn ngữ cũng gượng nhẹ, vòng vo. Ngay cả ở Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô Gia Văn Phái, khi viết về cuộc sống trụy lạc của Trịnh Sâm – Đặng Thị Huệ, các tác giả cũng giữ thái độ dè dặt, tôn kính. Xuân Hương thì khác, trong thi phẩm của bà, người đọc không bắt gặp đặc tính tốt đẹp của loại người này, cũng chẳng thấy bóng dáng của chữ trung quân, của ranh giới “Tam cương ngũ thường” đâu cả. Tất cả đều đã bị san bằng trong cái ham muốn sắc dục tiềm tàng kia.

Hồ Xuân Hương cũng không đồng ý với hôn nhân phong kiến “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” theo lý thuyết “tam tòng”. Người phụ nữ dưới xã hội phong kiến hoàn toàn bị động trước tình yêu và hạnh phúc. Điều này cũng đã được Hồ Xuân Hương thừa nhận như một thực tế đắng cay:

Thân em vừa trắng lại vừa tròn Bảy nổi ba chìm với nước non Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn Mà em vẫn giữ tấm lòng son

(Bánh trôi nước)

Nhưng điều quý giá ở đây là ý chí kiên định của người phụ nữ “Mà em vẫn giữ tấm lòng son” ấy. Họ không đầu hàng trước số phận, vẫn luôn cháy lên khát khao hạnh phúc, vẫn giữ gìn vẹn nguyên vẻ đẹp tâm hồn trong trẻo của mình. Do đó, người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương hoàn toàn chủ động, bạo dạn trước tình yêu, khích lệ khát vọng của người bạn tình (Trách Chiêu Hổ III).

Tiến sĩ Ngô Gia Võ đã từng chứng minh từ của trong bài thơ là danh từ và mang ẩn ý cái tục (trong bài báo Suy nghĩ quanh câu thơ “Này của Xuân Hương mới quệt rồi”). Câu thơ cần được hiểu là “Cái của này, Xuân Hương mới quệt rồi” theo cách nói nghịch ngợm rất Xuân Hương. Tuy nhiên, một từ “của” và cái ý vị hài hước nghịch ngợm kia vẫn rất mờ nhạt so với nội dung trữ tình tuyệt đẹp biểu hiện sáng rõ và xúc động khát vọng tình yêu lớn lao, chung thủy của Xuân Hương.

Với ý nghĩa phê phán, châm biếm đả kích cường quyền và thần quyền phong kiến, thơ Hồ Xuân Hương đã thể hiện một tư tưởng nhân đạo sâu sắc và thiết thực. Trong ý nghĩa này, nghệ thuật cái tục đã góp phần quan trọng nếu không nói là quyết định. Rõ ràng, với ý nghĩa chống cường quyền và thần quyền phong kiến, chống lại sự kìm hãm và đè nén hạnh phúc chân chính của con người, cái tục đã trở thành một phương tiện nghệ thuật đặc sắc, chuyển tải một giá trị tư tưởng tiến bộ, có sức sống lâu bền với thời gian.

3.2.4. Cái tục với ý nghĩa khẳng định khát vọng tự nhiên, ca ngợi hạnh phúc trần tục, đòi tự do và giải phóng con người.

Như chúng ta đều biết, giá trị nhân đạo cao nhất là giá trị khẳng định, ca ngợi và bênh vực con người. Chủ nghĩa nhân đạo phải “lấy việc khẳng định một cách lạc quan những nhu cầu và ham mê trần tục để đối lập với đạo đức khổ hạnh thời trung cổ” (A.P. Vôn-ghin, Lược thảo lịc sử các tư tưởng xã hội chủ nghĩa, NXB Sự thật, H, 1979, trang446).

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 100 trang tài liệu này.

Thơ Hồ Xuân Hương luôn ngợi ca khẳng định hạnh phúc trần tục của con người, khẳng định khát vọng tự nhiên, đòi giải phóng bản năng con người khỏi mọi trói buộc khổ hạnh của cường quyền và thần quyền. Khẳng định sức mạnh và vẻ đẹp của cơ thể con người, Hồ Xuân Hương chú trọng nhiều nhất đến các cơ quan sinh dục. Đây là một nét rất đặc biệt mà tác giả Đỗ Lai Thúy đã lý giải bằng công trình Hoài niệm phồn thực. Tác giả Tam Vị cũng khẳng định: “Hồ Xuân Hương coi thân thể và các bộ phận sinh dục cơ thể con người như là tự nhiên, thiên tạo, nó giống như tự nhiên, thiên nhiên vậy”[47, tr.18]. Vì vậy mà

giá trị bộc lộ nội dung tư tưởng nhân đạo của cái tục trong những bài thơ tứ tuyệt trào phúng này rất lớn.

Thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương - 11

Tuy vậy, đó không phải là ý nghĩa chủ đạo, khẳng định vẻ đẹp của thân thể con người chỉ là một nét rất nhỏ trong thơ Xuân Hương. Bà chủ yếu khẳng định và ngợi ca hạnh phúc trần tục thực tế của con người.

Có nhiều nhà nghiên cứu đã tìm hiểu về tình dục trong thơ Hồ Xuân Hương, mỗi người cho ra một ý kiến khác nhau. Nhưng theo chúng tôi, tình dục trong thơ Xuân Hương là tình dục ở mức độ lành mạnh và khỏe khoắn. Khi nói đến chuyện ân ái giữa nam và nữ, giọng thơ bà bỗng trở nên dí dỏm, tinh nghịch xiết bao. Một cô gái đứng trước sự quá trớn, sỗ sàng và liều lĩnh của người con trai đã tỉnh táo cảnh cáo rằng:

Anh đồ tỉnh, anh đồ say,

Sao anh ghẹo nguyệt giữa ban ngày? Này này chị bảo cho mà biết,

Chốn ấy hang hùm chớ mó tay.

(Trách Chiêu Hổ I)

Nhưng cũng chính cô gái ấy, khi người con trai còn rụt rè, chưa đáp ứng lòng mong mỏi của cô, lại tha thiết khuyến khích bằng một sự chọc tức bạo dạn:

Những bấy lâu nay luống nhắn nhe, Nhắn nhe toan những sự gùn ghè.

Gùn ghè nhưng vẫn còn chưa dám, Chưa dám cho nên phải rụt rè.

(Trách Chiêu Hổ III)

Trạng thái tình cảm của cô gái trong hai bài thơ là khác nhau, hai thái độ có vẻ như mâu thuẫn nhau của cô gái: một đằng là ngăn trở, cảnh cáo sự ham muốn quá trớn, sỗ sàng; một đằng lại là khích lệ và mong chờ sự ham muốn. Trạng thái ấy chính là trạng thái bình thường của một cô gái lành mạnh, minh mẫn và khỏe khoắn. Hai bài thơ đều làm bật ra tiếng cười dí dỏm, rất đỗi thoải mái, hồn nhiên.

Trong quan hệ, người phụ nữ thường yếu đuối và bị động nhưng trong thơ Hồ Xuân Hương thì chẳng yếu đuối tí nào. Họ hiện lên là những người phụ nữ đầy khí phách và sức mạnh, hết sức chủ động. Chính họ đã cảnh cáo sự liều lĩnh sỗ sàng:

Chốn ấy hang hùm chớ mó tay

(Trách Chiêu Hổ I)

3.2.5. Như vậy, qua việc khảo sát cái tục trong 8/15 bài thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng của Hồ Xuân Hương, chúng tôi nhận thấy cái tục là một phương tiện nghệ thuật độc đáo và đầy hiệu quả đã góp phần quan trọng, thậm chí quyết định đến sức sống lâu bền của thi phẩm Xuân Hương. Phương tiện nghệ thuật này được sử dụng với tần số cực lớn, được lặp lại theo những quy luật ổn định và trở thành một hình thức nghệ thuật đặc biệt chứa đựng trong nó một hệ thống những hình thức nghệ thuật ở cấp độ nhỏ hơn. Nghệ thuật cái tục trong thơ Xuân Hương đúng như quan niệm của tác giả Trần Đình Sử: “luôn luôn là một hình thức cụ thể, mang một nội dung tư tưởng thẩm mỹ xác định, thể hiện rất rõ cho cách tư duy nghệ thuật của một tác giả, hay của một thời đại, trào lưu văn học”[39, tr.17].

Mỗi lần cái tục xuất hiện là một lần nó chở tải những nội dung tư tưởng riêng, được Hồ Xuân Hương sử dụng với mục đích hết sức rõ ràng, cụ thể. Nghệ thuật cái tục trong thơ Hồ Xuân Hương vừa có ý nghĩa khẳng định vừa có ý nghĩa phủ định tạo nên tính chất nhiều tầng nghĩa, nhiều giá trị tư tưởng cho thi phẩm của bà. Trong nghệ thuật trào phúng Hồ Xuân Hương, cái tục đã góp phần quan trọng tạo ra “tiếng cười nghịch dị”, tiếng cười mang “biểu tượng hai mặt” hết sức độc đáo, nó chuyển tải sinh động tư tưởng nhân đạo sâu sắc, tiến bộ của Hồ Xuân Hương, góp phần quan trọng vào thành công của Hồ Xuân Hương trong văn học dân tộc nói riêng và văn học thế giới nói chung.

Tiểu kết

Qua ba vấn đề về phương diện nghệ thuật trào phúng trong thơ tứ tuyệt trào phúng của Hồ Xuân Hương: mối liên hệ giữa ngôn ngữ thơ Hồ Xuân Hương với văn học dân gian; ngôn ngữ nghệ thuật độc đáo, tài hoa; nghệ thuật cái tục,

chúng tôi nhận thấy về phương diện nghệ thuật ngôn từ trong thi ca trào phúng, Hồ Xuân Hương đã đạt đến một trình độ đỉnh cao; khác hẳn, thậm chí hơn hẳn các nhà thơ trước bà.

Về ngôn từ nghệ thuật, Hồ Xuân Hương có lẽ là người đã tạo ra một “thế giới thơ Nôm” như đánh giá của nhà nghiên cứu Đỗ Đức Hiểu. Ngôn từ trào phúng trong thơ bà quả thực đã đạt đến trình độ siêu Việt, những con chữ dường như có linh hồn, biết nhảy múa, khóc cười trong sự mê hoặc đầy nghệ thuật.

Đặc sắc nhất trong nghệ thuật trào phúng của Hồ Xuân Hương là nghệ thuật “cái tục”. Đây là một vấn đề đã gây nhiều tranh cãi. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng “cái tục” trong thơ Hồ Xuân Hương không phải là một vấn đề về phương diện nội dung mà là một vấn đề thuộc về phương diện hình thức nghệ thuật.

Tứ tuyệt là thể thơ ngắn, súc tích, hàm chứa những triết lý nhân sinh và thường gắn liền với đặc trưng “thi dĩ ngôn chí”. Qua bàn tay tài hoa của “kĩ nữ” Hồ Xuân Hương, tứ tuyệt đã từ đẳng cấp trên “chuyển kênh” xuống đẳng cấp dưới, nói lên được những tâm tư, khát vọng của những con người “thấp cổ bé họng”. Đây là một bước đột phá về hình thức nghệ thuật trong thơ Việt Nam thời kì Trung đại và đó cũng chính là một trong những nguyên nhân khiến giới nghiên cứu phê bình văn học Việt Nam gọi Hồ Xuân Hương là “hiện tượng nổi loạn” trong nền thơ Trung đại. Đây cũng chính là điều khiến cho năm 1987, thơ Hồ Xuân Hương được dịch sang tiếng Pháp và năm 1991 được dịch sang tiếng Anh đã khiến cho độc giả phương Tây phải bất ngờ, sửng sốt. Nhiều nhà nghiên cứu văn học đã coi bà là “Nữ sĩ hàng đầu của Châu Á”.

Từ những thành tựu về phương diện nghệ thuật trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương nói chung và thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương nói riêng, chúng tôi khẳng định rằng: Hồ Xuân Hương là một tác gia lớn trong nền thơ Trung đại, có vị trí đặc biệt quan trọng trong dòng thơ Nôm Đường luật Việt Nam. Bà là nhà thơ trữ tình – trào phúng vào loại đặc sắc, độc đáo nhất trong nền thơ Trung đại, xứng đáng là “Bà chúa thơ Nôm”.

K ẾT LUẬN


1. Dân tộc Việt Nam là một dân tộc giàu truyền thống vui tươi, lạc quan, yêu đời, và giàu tiếng cười. Tiếng cười thể hiện khát khao đòi hỏi của tự do, không có tự do thì không có tiếng cười, và như thế càng khát khao tự do thì tiếng cười càng lớn bởi ý nghĩa của nó. “Tiếng cười” của dân tộc Việt Nam có lịch sử lâu dài và được thể hiện ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Với một dân tộc yêu tự do, tràn đầy sức sống và khát vọng vươn lên bao giờ cũng là một dân tộc hay cười và biết cười. Nụ cười cũng chính là một thói quen quan trọng trong môi trường giao tiếp của người Việt. Dân tộc Việt Nam với hơn 4000 năm dựng nước và giữ nước, con người không chỉ biết rơi lệ đau thương mà tinh thần lạc quan còn thấm đượm trong cốt cách, chứng tỏ tiếng cười đã có một vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần Việt. “Văn học là nhân học” (M.Gorki), văn học cũng phong phú đa dạng như bản thân đời sống. Văn học luôn bắt nguồn từ đời sống, là tấm gương phản chiếu đời sống. Do đó, tiếng cười Việt Nam đã in dấu vào tiến trình văn học dân tộc, làm nên một truyền thống trào phúng có bề dày trong nền văn hóa dân gian và trong nền văn học viết.

Hồ Xuân Hương sống vào cuối thời vua Lê chúa Trịnh ở nước Việt Nam ta. Cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX là thời kì đánh dấu sự mục ruỗng và suy tàn của chế độ phong kiến Việt Nam. Trong thời kỳ đó, vua chúa sống cuộc sống xa hoa, trụy lạc, còn người dân thì vất vả, khổ cực với trăm thứ thuế nặng nề, phiền phức. Sống trong thời kỳ xã hội rối ren như vậy, là một người phụ nữ có trình độ, có ý thức về cá nhân và con người, Hồ Xuân Hương, với những vần “thơ quỷ” của mình, đã vạch trần bộ mặt xấu xa của chế độ phong kiến, lên tiếng bênh vực những con người thấp cổ bé họng, đặc biệt là người phụ nữ, đòi quyền sống, quyền tự do, hạnh phúc cho con người.

Thơ tứ tuyệt từ xưa đến nay vẫn làm cho các nhà nghiên cứu tốn bút mực để tranh luận về tên gọi của mình. Mỗi nhà nghiên cứu có cách định nghĩa khác nhau, nhưng tựu chung, thơ tứ tuyệt trước hết là bài thơ bốn câu. Với cấu trúc bốn câu ngắn gọn, nhưng nó không hề bị hạn chế sức mạnh và sức bao quát, dù

bị giới hạn bởi câu chữ nhưng vẫn chứa đựng được những nội dung khái quát. Là một thể thơ lâu đời ở Trung Quốc, thâm nhập và ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống văn học Việt Nam, thơ tứ tuyệt là một thể loại kết tinh được khá nhiều nét độc đáo của những giá trị tinh thần văn hóa phương Đông. Chính điều đó dường như đã góp phần tạo nên những sức mạnh đặc biệt của tứ tuyệt.

2. Ta có thể khẳng định, thơ Nôm trào phúng là một bộ phận thơ Nôm Đường luật đặc biệt, một dòng chảy khá riêng biệt gắn với cảm hứng thế sự và tiếp thu truyền thống trào phúng từ văn học dân gian, tạo ra những đặc thù tư tưởng và nghệ thuật riêng. Nói đến thơ Nôm trào phúng trước Hồ Xuân Hương, cần chú ý từ Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi nửa đầu thế kỷ XV với 254 bài đến Hồng Đức quốc âm thi tập của Lê Thánh Tông và các tác giả thời Hồng Đức nửa cuối thế kỷ XV với 328 bài, rồi đến Bạch Vân quốc ngữ thi tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm thế kỷ XVI với 161 bài. Đây là ba tác phẩm của thơ Nôm Đường luật không chỉ có số lượng lớn mà còn được các nhà nghiên cứu quan tâm mấy chục năm nay. Tuy nhiên, các nhà thơ này có làm thơ Nôm tứ tuyệt nhưng không làm thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng. Các nhà thơ trước Hồ Xuân Hương làm thơ tứ tuyệt với sự quy định nghiêm ngặt về hình thức và nội dung trang trọng, thi dĩ ngôn chí, theo quan điểm chính thống, thể hiện được khát vọng của người anh hùng, quân tử…ít ai dùng thơ Nôm tứ tuyệt để trào phúng. Nhưng đến Hồ Xuân Hương, thể thơ sang trọng đã chuyển sang thể thơ bình dị, gần gũi với đời thường, tiếng cười xuất phát từ dân gian, luôn tươi vui hồn nhiên, đầy sức sống. Đây thực sự là bước chuyển hóa rất lớn trong tiến trình phát triển của thơ ca Việt Nam. Sau Hồ Xuân Hương, thơ tứ tuyệt trào phúng tiếp tục xuất hiện và phát triển nhưng Hồ Xuân Hương chính là người mở đầu và có những thành tựu mới.

3. Thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương chính là bước đột phá lớn so với các nhà thơ trước, bà đã đưa thơ ca dân tộc lên một tầm cao mới với các tác phẩm tứ tuyệt trào phúng, có chất lượng cao, cả về nội dung tư tưởng cũng như giá trị nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật “cái tục”.

Hồ Xuân Hương - một nhà thơ yêu đời, yêu cuộc sống. Thơ bà không bao giờ là dửng dưng, lạnh nhạt. Đó là một trái tim luôn cháy bỏng, khi giận thì mắng chửi, khi yêu thương thì đằm thắm, dịu dàng. Với tài năng của mình, Hồ Xuân Hương đã vận dụng thành công sáng tạo ngôn ngữ của dân tộc. Những bài ca dao, tục ngữ, câu đố khi được bàn tay Xuân Hương nhào nặn thì luôn trở nên hấp dẫn, người, cảnh, vật luôn hiện lên có màu sắc, đường nét, hình khối riêng. Với phong cách đó, phong cách biểu hiện nét “nghĩa đôi” lập lờ của Hồ Xuân Hương chủ yếu dựa trên thủ thuật chơi chữ, lối nói lái, lối nói ỡm ờ và nghệ thuật câu đố “tục mà thanh, thanh mà tục”.

Đọc thơ Hồ Xuân Hương, người đọc luôn thấy hai trạng thái cảm xúc được song hành cùng nhau. Bên cạnh tiếng cười giòn giã, lạc quan, thách thức còn có cả tiếng thở dài ngậm ngùi, xót xa cho thân phận nổi trôi, hẩm hiu, bạc bẽo cho thân phận người phụ nữ. Đó là tiếng nói đòi quyền sống và nhân phẩm của người phụ nữ chống lại những tập tục bất công vô nhân đạo của lễ giáo phong kiến. Tiếng nói ấy sẽ mãi vang vọng hôm nay, ngày mai và trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc.

Phong cách ngôn ngữ Hồ Xuân Hương rất đặc biệt, uyên bác nhưng cũng rất dân gian, thâm thúy sâu cay. Với tâm hồn phóng túng, dũng cảm, số phận tủi hờn, nhà thơ đã diễn tả chúng với lối văn giản dị, đời thường. Bên trong con người luôn nhìn đời bằng ánh mắt mỉa mai ấy là một tâm hồn biết buồn, biết khổ, biết xót xa cho thân phận khổ đau của con người mà người phụ nữ là một minh chứng điển hình. Điều đó đã tạo nên giá trị nhân văn, nhân bản sâu sắc, có giá trị phản phong, thổi một luồng gió mới vào văn học đương thời.

Không chỉ là một tác gia văn học, Hồ Xuân Hương còn là một hiện tượng văn học, văn hóa. Bà là biểu hiện điển hình cho sự trỗi dậy của ý thức cá nhân, một thời kì phục hưng văn học ở Việt Nam. Đáng chú ý là sự phản kháng với thiết chế xã hội phong kiến lỗi thời, ý thức đòi quyền sống hạnh phúc, đòi sự bình quyền cho người phụ nữ. Đặc biệt là sự đóng góp của tác giả trong việc sử dụng tiếng Việt và Nôm hóa thể thơ tứ tuyệt luật Đường vốn đòi hỏi sự uyên Nho, làm cho nó có sắc

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 04/10/2023