Thơ Nguyễn Duy trong trường phổ thông từ góc nhìn văn hóa - 2


Về phương diện cảm hứng chủ đạo, Vũ Văn Sỹ đã mượn ngay câu thơ của Nguyễn Duy để kết luận về cảm hứng chủ đạo trong thơ ông: Nguyễn Duy- người thương mến đến tận cùng chân thật” [20]. Nguyễn Quang Sáng nêu nhận xét cụ thể hơn: “Nguyễn Duy gắn bó máu thịt với đất nước mình bằng tình cảm rất cụ thể với người dân... Thơ Nguyễn Duy có niềm tự hào chính đáng về nhân dân mình, cùng với nỗi buồn thương chính đáng”. Trong các bài phê bình nghiên cứu về thơ Nguyễn Duy, thì bài viết Nguyễn Duy - thi sĩ thảo dân của Chu Văn Sơn là một bài viết công phu, cung cấp cho người đọc một cái nhìn về thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Duy. Trong đó hai từ “thảo dân” được dùng với nghĩa: “Cái từ xưa này đang được làm mới, với những sắc thái thú vị của thì hiện tại, bởi một phong cách ngôn ngữ mà Duy đang phải lòng- ngôn ngữ “cơm bụi”. Từ đó biện giải “Nguyễn Duy là thi sĩ thảo dân”, chỉ ra bản chất “thảo dân” ấy ở cảm hứng sáng tác, ngôn ngữ, giọng điệu, thể thơ lục bát của Nguyễn Duy [16, tr.38-53].

Trong các bài viết về những bài thơ, tập thơ tiêu biểu của Nguyễn Duy, các tác giả đã phát hiện được nét riêng độc đáo của từng tác phẩm. Trong Hơi ấm ổ rơm, Vũ Quần Phương nhận thấy ở đó “tấm lòng thơm thảo, nhường cơm xẻ áo của nhân dân ta”. Còn Lê Trí Viễn khi nói về bài Tre Việt Nam đã khẳng định đó là những biểu hiện của “phẩm chất con người”. Đỗ Lai Thúy lại nhận thấy ở thơ Nguyễn Duy sự “giải cổ tích hóa”, là “cốt cách hiện đại” [24, tr.379- 384]. Trong Ánh trăng, Nguyễn Bùi Vợi đã cảm nhận: “Nỗi ăn năn nhân bản, thức tỉnh tâm linh, làm đẹp con người. Tập thơ của Nguyễn Duy được nhiều nhà phê bình chú ý là Ánh trăng –tập thơ được nhận giải thưởng của Hội Nhà Văn 1984. Nếu như Lê Quang Trang chú ý đến sự thống nhất giữa những yếu tố đối lập và sở trường thơ lục bát thì Từ Sơn lại tâm đắc với chất hiện thực, chất dân


tộc và những cảm xúc nồng nàn. Nhận xét về nội dung tập thơ, Từ Sơn viết: “Ánh trăng chiếm số lượng lớn vẫn là những bài thơ viết về người lính, về những điều đã cảm nhận trên các nẻo đường chiến tranh” [18, tr.2]. Cùng ý kiến đó, Lê Quang Hưng đã đưa ra một cái nhìn tổng quát về tập thơ Ánh trăng: “Ánh trăng trước tiên vẫn là tiếng nói của một người lính, tiếng nói tìm đến những người lính – những đồng đội để sẻ chia, trò chuyện… Đúng như Nguyễn Duy tâm sự: anh luôn cảm thấy mình mắc nợ cuộc sống, mắc nợ những đồng đội…” [7, tr.156]. Trên cơ sở đó, Lê Quang Hưng chỉ ra sức hấp dẫn của tập thơ: “Ánh trăng được nhiều bạn đọc yêu thích trước hết vì nó thực sự là một phần của một cuộc đời, là tiếng nói của một cây bút có trách nhiệm trước cuộc sống xây dựng và chiến đấu sôi động trên đất nước ta những năm qua” [7, tr.158]. Đến với thơ Nguyễn Duy, nếu như Lại Nguyên Ân tập trung tìm hiểu sự cách tân thể loại và giọng điệu thì Lê Quang Hưng lại đối sánh Ánh trăng với các tập thơ trước đó của ông để khẳng định đây là: “Một bước tiến dài”. Nhà thơ Tế Hanh cũng có nhận xét khi đọc tập thơ Ánh trăng: “Đọc thơ Nguyễn Duy trước hết ta thấy anh là một người lính đã chiến đấu ở nhiều mặt trận. Hiện nay anh không phải là quân nhân nhưng những câu thơ anh viết về bộ đội, về cuộc đời quân nhân vẫn là những câu thơ thấm thía nhất” [5, tr.3].

Bên cạnh đó, có thể kể đến các ý kiến nhận xét về bài thơ Đò lèn. Trịnh Thanh Sơn đọc bài Đò Lèn, cho đó là: “Những thước phim quay chậm” về nỗi gian truân của người bà, khiến độc giả “chỉ đọc thôi đã muốn trào nước mắt” [17, tr.14]. Sách giáo khoa Ngữ văn 12, phần Tiểu dẫn cũng giới thiệu: “Bài thơ Đò Lèn được viết năm 1983, trong một dịp nhà thơ trở về quê hương, sống với những hồi ức đan xen nhiều buồn vui của thời thơ ấu”. Gợi ý từ bài đọc thêm này của trong Ngữ văn 12 như một giới thuyết mang tính chủ đề của Đò Lèn.


Như vậy, qua các bài nghiên cứu, phê bình thơ Nguyễn Duy nêu trên, chúng tôi nhận thấy các tác giả đã chỉ ra được một số đặc điểm nổi bật về nội dung, nghệ thuật trong thơ Nguyễn Duy. Nhìn chung, những bài viết trên mới đi vào tìm hiểu một bài thơ, tập thơ hoặc chỉ dừng lại nghiên cứu một khía cạnh, một mặt nào đó trong thơ Nguyễn Duy. Hiện chưa có một công trình nào đi sâu nghiên cứu, khảo sát toàn diện và có hệ thống về thơ Nguyễn Duy từ góc nhìn văn hóa.Vì thế đó là phần đất trống mà chúng tôi hy vọng có thể khai phá. Với khóa luận này, chúng tôi hy vọng góp thêm tiếng nói tìm hiểu một cách có hệ thống về thơ của Nguyễn Duy, chỉ ra nét đặc sắc của thơ Nguyễn Duy dưới góc nhìn văn hoá. Tuy nhiên, tất cả những bài viết ấy đều là những gợi mở quý giá cho chúng tôi khi thực hiện đề tài khóa luận.

3. Mục đích nghiên cứu

- Khẳng định, củng cố một khía cạnh nghiên cứu và tiếp nhận thơ Nguyễn Duy trong nhà trường phổ thông.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 64 trang tài liệu này.

- Góp phần khẳng định sự độc đáo trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Duy qua tìm hiểu thơ Nguyễn Duy trong nhà trường phổ thông từ góc nhìn văn hóa.

- Góp phần phục vụ giảng dạy, học tập, nghiên cứu tác phẩm văn học của Nguyễn Duy trong nhà trường phổ thông nói riêng và các tác phẩm văn học nói chung.

Thơ Nguyễn Duy trong trường phổ thông từ góc nhìn văn hóa - 2

4. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Tập hợp các vấn đề lý thuyết có liên quan đến đề tài; Khảo sát, phân loại các yếu tố văn hóa ảnh hưởng trong thơ Nguyễn Duy.

- Phân tích, đánh giá các yếu tố văn hóa ảnh hưởng trong thơ Nguyễn Duy để rút ra kết luận về thơ Nguyễn Duy trong nhà trường phổ thông từ góc nhìn văn


hóa, phục vụ cho việc nghiên cứu, tiếp nhận và giảng dạy tác phẩm trong nhà trường phổ thông.

5. Phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp phân tích và tổng hợp

Với phương pháp này, chúng tôi vận dụng để có cách nhìn, cách đánh giá vừa cụ thể, vừa khái quát những tầng nghĩa tiềm tàng của văn bản tác phẩm.

5.2. Phương pháp cấu trúc - hệ thống

Sử dụng phương pháp này để xem xét những bình diện, những yếu tố và những biểu hiện của mối quan hệ văn hóa - văn học.

5.3. Phương pháp so sánh

So sánh thơ Nguyễn Duy với một số tác giả khác để thấy dấu ấn văn hóa nổi bật trong thơ Nguyễn Duy. Từ đó khẳng định giá trị của yếu tố văn hoá độc đáo đặc sắc trong thơ ông.

5.4. Phương pháp liên ngành

Chúng tôi sử dụng phương pháp này để soi chiếu thơ Nguyễn Duy ở nhiều góc độ và tìm ra những nét nổi bật nhất trong mối quan hệ văn hóa - văn học.

6. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu

6.1. Đối tượng nghiên cứu

Vận dụng mối quan hệ văn học - văn hóa để khai thác thơ Nguyễn Duy từ góc nhìn văn hóa, trên bình diện nội dung: Văn hóa làng, văn hóa sinh thái, văn hóa đô thị, sự thức tỉnh ý thức môi sinh, văn hóa truyền thống với những lễ hội, phong tục, tập quán và văn hóa hiện đại với những vấn đề thế sự.

6.2. Phạm vi nghiên cứu

Trong phạm vi của đề tài khóa luận, chúng tôi giới hạn khảo sát những tác phẩm thơ của Nguyễn Duy trong nhà trường phổ thông gồm: Ánh trăng, Đò lèn.


Ngoài ra, để có cơ sở đối sánh, chúng tôi còn nghiên cứu tác phẩm của các nhà thơ khác. Qua đó thấy được nét tương đồng và đóng góp riêng của Nguyễn Duy.

7. Đóng góp của khóa luận

- Khóa luận của chúng tôi là một công trình nghiên cứu có hệ thống về mối quan hệ giữa văn hóa và văn học thông qua thơ của Nguyễn Duy. Tìm hiểu dấu ấn văn hóa trong thơ Nguyễn Duy, chúng tôi muốn chỉ ra vai trò của văn hóa đối với văn học. Đồng thời qua đó, ta sẽ hiểu rò hơn về quan hệ giữa văn hóa và sáng tạo văn học.

- Khóa luận góp phần khẳng định bản sắc riêng của thơ Nguyễn Duy trong tiến trình của thơ ca Việt Nam hiện đại. Khóa luận góp phần giúp người tiếp nhận nhận ra giá trị của văn hóa, của sinh thái đối với con người. Bồi đắp lòng yêu thiên nhiên và lòng tự hào về những giá trị văn hóa của dân tộc, góp phần nâng cao ý thức giữ gìn bản bắc văn hóa Việt.

- Kết quả của khóa luận sẽ góp một phần nhỏ vào việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập thơ Nguyễn Duy ở nhà trường phổ thông.

8. Cấu trúc của khóa luận

Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung khóa luận được triển khai trong ba chương:

Chương 1: Những vấn đề chung.

Chương 2: Dấu ấn văn hóa trong Ánh Trăng của Nguyễn Duy. Chương 3: Dấu ấn văn hóa trong Đò lèn của Nguyễn Duy.


NỘI DUNG CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG


1.1. Những tiền đề khoa học

1.1.1. Khái niệm văn hóa, văn học

- Khái niệm văn hóa

Văn hóa là một hiện tượng đa dạng và phức tạp. Tùy theo góc độ nghiên cứu, khái niệm văn hóa được trình bày khác nhau. Định nghĩa của UNESSCO về văn hóa: “Văn hóa là tổng thể nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và cảm xúc, quyết định tính cách của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống giá trị, những tập tục và tín ngưỡng

Ở Việt Nam khái niệm văn hóa cũng được quan tâm, bàn đến.

Theo Từ điển Tiếng Việt, văn hóa được hiểu là: “tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử”.

Theo PGS - TS Trần Ngọc Thêm: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội” [23, tr.10].

- Khái niệm văn học

Theo Từ điển thuật ngữ văn học, khái niệm văn học được khái quát như sau: “Văn học là loại hình nghệ thuật sáng tạo bằng ngôn từ”. Khái niệm văn học bao gồm cả văn học dân gian - được sáng tác và lưu truyền bằng miệng từ


đời này sang đời khác, và văn học viết - được sáng tác và lưu truyền dưới hình thức văn bản viết.

Nghệ thuật là một hình thái ý thức đặc thù thuộc thượng tầng kiến trúc, liên hệ mật thiết với các hình thái ý thức xã hội khác nhau như chính trị, triết học, đạo đức, tôn giáo…Về phương diện này văn học là sự phản ảnh của đời sống xã hội thể hiện sự nhận thức và sáng tạo của con người. Bản chất xã hội lịch sử của văn học với tư cách là hình thái ý thức xã hội đặc thù được xác định bằng các khái niệm như: tính hiện thực, tính nhân loại, tính giai cấp, tính tư tưởng, tính khuynh hướng, tính đảng, tính nhân dân,… Nhưng khác với các hình thái ý thức xã hội nói trên, văn học có những đặc trưng độc đáo của bộ môn nghệ thuật thể hiện ở đối tượng nhận thức, ở nội dung và phương thức biểu đạt hình tượng, ở chất liệu sáng tạo của nó. Văn học lấy con người làm đối tượng nhận thức trung tâm. Văn học nhận thức con người với toàn bộ tính tổng hợp, toàn vẹn, sống động trong các mối quan hệ đời sống phong phú và phức tạp của nó, trên phương diện thẩm mĩ. Trong tác phẩm văn học, nhà văn không chỉ nhận thức chân lí khách quan mà còn bộc lộ tư tưởng và tình cảm, ước mơ và khát vọng của mình đối với con người và cuộc sống. Do đó, Nội dung của văn học là sự thống nhất biện chứng giữa phương diện chủ quan và phương diện khách quan.

Đối tượng và nội dung đặc thù đòi hỏi nhà văn phải có phương thức chiếm lĩnh và biểu đạt đặc thù, đó là hình tượng nghệ thuật. Tính hình tượng là dấu hiệu đặc trưng cơ bản giúp ta phân biệt văn học với những tác phẩm cũng diễn đạt bằng lời văn, cũng dùng văn chương nhưng không phải là văn học. Hình tượng nghệ thuật làm cho văn học gần gũi với các loại hình nghệ thật khác. Tuy nhiên do mỗi loại hình nghệ thuật sử dụng một loại chất liệu khác nhau, cho nên hình tượng của chúng có những đặc điểm riêng.


Do lấy ngôn từ làm chất liệu, văn học chỉ xây dựng được hình tượng “phi vật thể”, có khả năng tác động vào trí tuệ, vào liên tưởng của con người. Mặt khác, chính chất liệu ngôn từ giúp văn học đạt được tính vạn năng trong việc chiếm lĩnh đời sống. Văn học chẳng những chiếm lĩnh được tất cả những gì mắt thấy, tai nghe bằng cái nhìn thị giác và thính giác mà còn tái hiện được cả mùi, vị, nắm bắt được cả những điều mơ hồ, vô hình nhưng có thật trong cảm giác của con người. Văn học có thể phản ánh quá trình vận động không ngừng của đời sống trong không gian và thời gian ở bất kì giới hạn nào. Với chất liệu ngôn từ, văn học còn có khả năng tái hiện lời nói và thế giới tư tưởng của con người.

1.1.2. Mối quan hệ giữa văn hóa – văn học

Có nhiều nhà nghiên cứu ở Việt Nam đã quan tâm đề cập tới. Có thể kể đến những công trình sau:

Hồ Chí Minh trong Bàn về văn hóa, văn học thường trăn trở, khuyên nhủ văn nghệ sĩ phải tìm hiểu sâu vốn văn hóa dân tộc, làm sao để quần chúng nhân dân tiếp nhận được văn hóa: “Văn học và nghệ thuật phải luôn luôn tìm tòi những con đường để làm sao có thể diễn tả một cách chân thực hơn và chân chính hơn cho nhân dân nghe về những mối lo âu và những suy nghĩ của nhân dân”.

Trần Đình Sử trong bài viết Vai trò sáng tạo văn hóa của văn học cho rằng - vai trò sáng tạo ấy thể hiện rò nhất trên bốn phương diện: 1/ Lấy việc sáng tạo, biểu hiện con người làm đối tượng trung tâm, văn học trước hết phát huy vai trò sáng tạo những mô hình nhân cách; 2/ Văn học có vai trò “phê phán văn hóa”; 3/ Văn học có vai trò lựa chọn văn hóa; 4/ Văn học có vai trò sáng tạo văn hóa [19, tr.891-894].

Xem tất cả 64 trang.

Ngày đăng: 20/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí