Tòa án cần thông báo để các cơ quan này có thể tham gia tố tụng hoặc theo dõi kết quả bảo vệ QSHCN trong phạm vi chức năng của mình. Trong quá trình xử lý xâm phạm, giải quyết tranh chấp, nếu thấy hành vi xâm phạm QSHCN đủ yếu tố cấu thành tội phạm theo quy định của BLHS thì các cơ quan chức năng thông báo và chuyển hồ sơ, tài liệu có liên quan cho cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định việc xử lý.
3.2.2. Hoàn thiện pháp luật về tổ chức
SHTT nói chung và SHCN nói riêng là lĩnh vực chuyên môn sâu, phức tạp, vì vậy, việc giải quyết tranh chấp về SHTT cần có Toà án chuyên trách thực hiện nhiệm vụ này. Ở Việt Nam, khi cơ chế thị trường tác động tới các lĩnh vực hoạt động kinh tế, văn hoá thì những tranh chấp về QSHTT cũng gia tăng. Để tạo sự bình ổn và thúc đẩy kinh tế phát triển thì việc giải quyết hiệu quả, công bằng, “thấu tình, đạt lý” các tranh chấp đó là điều không thể thiếu. So với các biện pháp giải quyết tranh chấp khác, các hình thức xử phạt của Toà án đối với các hành vi vi phạm dường như nghiêm khắc và có khả năng răn đe hơn cả [38]. Nhiều nước trên thế giới đã có hệ thống Tòa án SHTT như Mỹ, Nhật, Thái Lan…Do tính đặc thù của biện pháp dân sự và sự cần thiết phải tăng cường bảo vệ QSHCN bằng biện pháp dân sự nên đây là cơ sở để hình thành hệ thống Tòa án chuyên biệt về SHTT.
Trong xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, với sự tham gia các điều ước quốc tế, pháp luật mỗi quốc gia đã và đang có sự giao thoa và xích lại gần nhau, những điểm khác biệt của các hệ thống pháp luật ngày càng thu hẹp lại và thay vào đó là những điểm tương đồng. Việc thành lập Tòa chuyên biệt như Thái Lan, Đức... đã tỏ ra rất hiệu quả đối với sự phát triển thương mại và đầu tư quốc tế, trong những năm nửa cuối của thập niên 90, trong điều kiện nhiều lĩnh vực kinh doanh và tài chính quan trọng gần như phá sản nhưng Thái Lan đã quyết tâm thành lập Tòa án Trung ương về SHTT và Thương mại quốc tế (viết tắt là Tòa IP&IT). Trong một bài viết của mình, ông Vichai Ariyanuntaka (Thẩm phán Tòa IP&IT Trung
ương, Bangkok, Thái Lan) đã viết: Đây là thời điểm để suy nghĩ lại, lập lại kế hoạch và cấu trúc lại cơ sở hạ tầng pháp lý của chúng ta để tạo nên một môi trường luật pháp thân thiện hơn cho thương mại và đầu tư quốc tế. Một môi trường pháp lý mà tại đó các quyền pháp lý, công dân và người nước ngoài phải được bảo vệ và thi hành theo luật pháp và bởi hệ thống tư pháp của chúng ta. Môi trường pháp lý sẽ đem lại cho chúng ta danh tiếng trong thương mại và đầu tư quốc tế và phục hồi toàn bộ nền kinh tế của chúng ta. Tại Thái Lan, trong lĩnh vực thi hành công lý, việc thành lập Tòa IP&IT là một yếu tố duy nhất quan trọng nhằm đạt được mục tiêu này [37].
Tại Việt Nam, trong tiến trình cải cách tư pháp, việc kiện toàn cơ cấu tổ chức của các TAND là tất yếu cần thiết và không phải là ngoại lệ. Mặc dù ở hầu hết các nước, các loại việc về QSHTT bao gồm các loại việc dân sự, hình sự và hành chính, nhưng một số nước như Cộng hòa Liên bang Đức, Thái Lan... đã thành lập Tòa án chuyên biệt xét xử các vụ xâm phạm về SHTT; một số nước lại có các Tòa chuyên xét xử các vụ xâm phạm về SHTT nằm trong Tòa án. Ở Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ, Anh và Xứ Uyên chỉ có Tòa SHTT giải quyết các vụ án dân sự về SHTT mà không có Tòa chuyên trách để giải quyết các vụ án hình sự về SHTT, các vụ án hình sự về SHTT được giải quyết theo thủ tục thông thường. Các nước này đều có Tòa án về Văn bằng sáng chế, Tòa này có thẩm quyền đối với các vụ việc dân sự, phúc thẩm các quyết định của Văn phòng về Văn bằng sáng chế. Nắm bắt xu hướng này, Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” có nhận định: “Xác định rõ chức nămg, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức, bộ máy các cơ quan tư pháp. Trọng tâm là xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân. Tổ chức hệ thống tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính gồm: tòa án sơ thẩm khu vực được tổ chức ở một hoặc một số đơn vị hành chính cấp huyện; tòa phúc thẩm có nhiệm vụ chủ yếu là xét xử phúc thẩm và xét xử sơ thẩm một
số vụ án; tòa thượng thẩm được tổ chức theo khu vực có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm; Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm. Việc thành lập tòa chuyên trách phải căn cứ vào thực tế xét xử của từng cấp tòa án, từng khu vực. Đổi mới tổ chức Tòa án nhân dân tối cao theo hướng tinh gọn với đội ngũ thẩm phán là những chuyên gia đầu ngành về pháp luật, có kinh nghiệm trong ngành” (điểm 2.2, Mục 2, Phần II) [3].
Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta nên khẩn trương nghiên cứu mô hình Tòa SHTT theo kinh nghiệm của một số nước để khi có đủ điều kiện đề nghị thành lập Tòa SHTT. Trước mắt, cần đào tạo nguồn nhân lực và chuẩn bị cơ sở lý luận cho việc thành lập các Tòa chuyên trách về SHTT tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, sau đó triển khai ở các khu vực khác. Trong bài viết: “Đề xuất mô hình Toà Sở hữu trí tuệ cho Việt Nam” của tác giả Dũng Hà đăng trên báo Diễn đàn doanh nghiệp thì theo kết quả thu được từ cuộc điều tra năm 2004 của Uỷ ban Luật SHTT thuộc Hiệp hội Luật sư quốc tế về Toà SHTT chuyên trách của các nước thì việc thành lập Toà chuyên trách về SHTT là cần thiết và thực tế đã chứng minh vai trò của nó trong việc nâng cao hiệu quả thực thi, thúc đẩy hệ thống SHTT quốc gia phát triển [26]. Tuy nhiên, mô hình Toà SHTT chuyên trách vận hành có hiệu quả tại một quốc gia nào đó không có nghĩa rằng nó sẽ vận hành tốt tại quốc gia khác. Tác giả bài báo đề xuất: để góp phần thúc đẩy sự phát triển của hệ thống SHTT Việt Nam, cần thiết phải xây dựng mô hình Toà SHTT phù hợp. Toà nên được đặt tại cấp tỉnh (ban đầu có thể đặt tại các tỉnh, thành phố lớn) với thẩm quyền xét xử các vụ án liên quan đến QSHTT, bao gồm cả hình sự, dân sự và hành chính. Bên cạnh các quy định chung về nguyên tắc xét xử, cần ban hành các quy định riêng về thủ tục xét xử các vụ án về SHTT, theo đó thủ tục xét xử cần được tiến hành một cách linh hoạt, đơn giản hoá, ngắn gọn, có thể học tập kinh nghiệm của một số nước như thẩm vấn nhân chứng qua điện thoại, không được hoãn phiên toà,
xét xử bí mật…Mặt khác, để đảm bảo tính chuyên môn trong quá trình xét xử, cần xây dựng cơ chế phù hợp nhằm huy động sự tham gia của các chuyên gia, thẩm định viên vào quá trình xét xử của Toà án.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, hầu hết các hành vi xâm phạm QSHCN đều có thể xử lý bằng biện pháp hành chính. Điều này đã dẫn đến tình trạng “hành chính hoá” các quan hệ dân sự. Một số trường hợp xâm phạm QSHCN tuy thuộc lĩnh vực dân sự, lẽ ra cần phải được giải quyết theo thủ tục dân sự tại Toà án nhưng lại được xử lý bằng biện pháp hành chính với quan niệm “cho đơn giản và đỡ tốn kém” [46]. Vì vậy, trong thời gian nghiên cứu để thành lập Tòa án chuyên biệt về SHTT, chúng ta cần thiết phải có quy định để giao cho Tòa án để giải quyết một số tranh chấp thuộc đối tượng của SHCN như tranh chấp về sáng chế, bố trí thiết kế mạch tích hợp bán dẫn, tên thương mại, bí mật kinh doanh, quyền chống cạnh tranh không lành mạnh. Đây là các đối tượng thể hiện rõ nét bản chất dân sự của chủ sở hữu và liên quan nhiều đến việc cung cấp chứng cứ để chứng minh do vậy, việc phân cấp cho Tòa án để xử lý bằng biện pháp dân sự các đối tượng trên mà không giao cho các cơ quan thực thi bằng biện pháp hành chính là cần thiết [48].
Có thể bạn quan tâm!
- Trình Tự, Thủ Tục Bảo Vệ Qshcn Bằng Biện Pháp Dân Sự
- Đề Xuất Giải Pháp Nâng Cao Hiệu Quả Bảo Vệ Quyền Sở Hữu Công Nghiệp Bằng Biện Pháp Dân Sự
- Hoàn Thiện Pháp Luật Về Nội Dung
- Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp dân sự - 13
Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.
3.2.3. Nhóm giải pháp về nâng cao năng lực của Toà án và tuyên truyền pháp luật bảo vệ QSHCN bằng biện pháp dân sự
Có thể khẳng định rằng, về nguyên tắc pháp luật Việt Nam đã tạo đầy đủ cơ sở pháp lý để mọi hành vi xâm phạm QSHCN đều có thể được xử lý bằng phán quyết của Toà án, nghĩa là Toà án Việt Nam cần phải được xác định là cơ quan có thẩm quyền giải quyết bất cứ vụ kiện nào có liên quan đến QSHCN mà chủ sở hữu các đối tượng QSHCN đã có đơn khởi kiện hay yêu cầu, khiếu nại đến Toà án. Việc xác định thẩm quyền của Toà án lại cũng là đòi hỏi đối với Toà án về năng lực để giải quyết được những vụ việc thuộc thẩm quyền của mình trong lĩnh vực bảo vệ QSHCN.
Các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực của Toà án trong việc bảo vệ QSHCN như: thủ tục tố tụng phức tạp, kém hiệu quả; giải quyết vụ việc qua quá nhiều trình tự với thời gian quá lâu; các chủ thể ngại bị coi là phải ra Toà; án phí, lệ phí đắt hơn các phương thức giải quyết khác; Toà án thiếu những chuyên gia có trình độ chuyên môn cần thiết về SHCN để giải quyết tốt các loại vụ việc trong lĩnh vực này… cần sớm phải được khắc phục [35]. Đứng trước yêu cầu đó, bên cạnh việc hoàn thiện pháp luật về nội dung và pháp luật về tố tụng thì cần thiết phải nâng cao trình độ và trách nhiệm của đội ngũ Thẩm phán trong hệ thống TAND bởi trong hoạt động xét xử của TAND thì yếu tố con người đóng vai trò quyết định, trong đó Thẩm phán là chủ thể trực tiếp và những cán bộ Tòa án có vai trò hỗ trợ cho hoạt động xét xử. Hiện nay, cán bộ, Thẩm phán của các TAND còn thiếu kiến thức chuyên sâu về SHCN, số cán bộ, Thẩm phán được đào tạo về SHCN quá ít ỏi. Tại TANDTC, theo chương trình hợp tác quốc tế giữa Chính phủ Việt Nam và một số tổ chức chính phủ và phi chính phủ đã tổ chức một số khóa đào tạo dành cho các Thẩm phán, cán bộ Tòa án. Tuy nhiên đây chỉ là những khóa đào tạo ngắn hạn do vậy việc tiếp cận các kiến thức, pháp luật về SHCN chưa sâu, chưa có tính hệ thống. Do vậy cần đưa ra mục tiêu và chương trình hành động thiết thực về đào tạo có hệ thống để chuyên môn hóa đội ngũ cán bộ, Thẩm phán ở các TAND hiện nay, tiến tới có đủ các Thẩm phán chuyên xét xử về SHCN. Mặt khác cũng cần chú trọng hình thức bồi dưỡng, tập huấn ngắn ngày để bổ túc kiến thức nghiệp vụ, bồi dưỡng theo chuyên đề kết hợp với hội thảo tổng kết công tác thực tiễn, ngoài ra việc xây dựng giáo trình, cẩm nang chuyên về giải quyết xâm phạm QSHCN để nâng cao kỹ năng, năng lực thực hành, thiết lập mạng lưới thông tin về SHCN giữa các cơ quan, tổ chức liên quan và Tòa án để cập nhật và tăng cường việc trao đổi thông tin.
Việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, năng lực của cán bộ, Thẩm phán phải đi đôi với công tác giáo dục chính trị, tư tưởng. Hoạt động xét xử
của TAND không chỉ mang tính khoa học pháp lý đơn thuần mà còn thể hiện sự minh bạch, khách quan, hiệu quả của hệ thống Tòa án, nếu làm tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng, giáo dục chính trị tư tưởng sẽ góp phần nâng cao hiệu quả, chất lượng cho hoạt động xét xử của các TAND.
Đối với công tác tuyên truyền pháp luật bảo vệ QSHCN bằng biện pháp dân sự cần tiến hành một số công việc như: xây dựng các phiên toà mẫu để xét xử các vụ án dân sự về SHCN, tổ chức tổng kết thực tiễn, rút kinh nghiệm trong việc giải quyết các tình huống tại phiên toà. Thực hiện việc công bố các quyết định, bản án của Toà án về SHCN. Việc công bố này sẽ tăng cường tính minh bạch và có tác dụng trong việc giúp Toà án các cấp áp dụng thống nhất pháp luật trong công tác xét xử, nâng cao chất lượng của việc ra bản án, kinh nghiệm khai thác và đánh giá chứng cứ, đồng thời tuyên truyền cho người dân, các doanh nghiệp thấy được kết quả giải quyết các vụ án của toà án để phòng ngừa khả năng xâm phạm và hiểu được các quy định của pháp luật liên quan đến việc bảo vệ quyền SHCN.
Để các giải pháp nêu trên trở thành hiện thực và sớm đi vào thực tiễn cuộc sống, thiết nghĩ bên cạnh sự nỗ lực của các ngành, các cấp, các tổ chức xã hội, các cơ quan có thẩm quyền thì Chính phủ nên xây dựng một chiến lược cụ thể về SHTT trong đó có vấn đề bảo vệ QSHCN. Tham khảo chiến lược bảo vệ QSHTT của Nhật Bản cho thấy, sự phát triển của Nhật Bản được xây dựng dựa trên một chính sách cạnh tranh với thị trường thế giới thông qua các sản phẩm trí tuệ có hàm lượng trí tuệ cao và giá cả phù hợp. Nhân tố quan trọng khuyến khích sự phát triển của khoa học công nghệ và việc tạo ra các sản phẩm có sức cạnh tranh như trên chính là do chính sách quốc gia về bảo vệ QSHTT của Nhật Bản. Là một quốc gia Châu Á có bề dày phát triển hệ thống bảo vệ QSHTT, Nhật Bản đã làm được nhiều điều kỳ diệu khiến nhiều quốc gia trên thế giới phải học tập. Nhận thức vai trò của SHTT trong sự sinh tồn của quốc gia, Chính phủ Nhật Bản đã sớm xây dựng một chiến lược tổng thể quốc gia về bảo vệ
QSHTT. Ngày 3/7/2002, Hội đồng chiến lược QSHTT do một nhóm cố vấn riêng cho Thủ tướng Junichiro Koizumi được thành lập. Những người này đã thảo ra những nét chính về chiến lược bảo hộ QSHTT của Nhật Bản, trong đó đã đưa ra các nguyên tắc cơ bản trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến bảo vệ QSHTT ở Nhật Bản và làm đất nước này trở thành một đất nước kiểu mẫu trong việc bảo vệ QSHTT trên thế giới. Chiến lược quốc gia trên của Nhật Bản cho thấy được một chu trình khép kín của việc xây dựng một hệ thống SHTT bền vững bao gồm: sáng tạo tài sản trí tuệ - Bảo vệ tài sản trí tuệ - sử dụng tài sản trí tuệ - nâng cao trình độ của con người. Điểm nổi bật của chiến lược trên là thành lập Hội đồng quốc gia về SHTT, Hội đồng này được xây dựng trên cơ sở của Luật SHTT, trong đó đích thân Thủ tướng Nhật làm chủ tịch. Hội đồng này đưa ra các chương trình cụ thể cho hoạt động SHTT của đất nước. Khẩu hiệu được Hội đồng trên đưa ra có tên: “Hành động quốc gia để tái tạo ra tài sản trí tuệ - nền tảng quốc gia”. Vì vậy, theo tác giả thì Việt Nam cũng cần thiết xây dựng chiến lược quốc gia về SHTT, trong đó xây dựng các bước đi phù hợp và hiệu quả với điều kiện, hoàn cảnh của Việt Nam.
KẾT LUẬN
Trí tuệ là một tài sản vô hình, do vậy khi nói đến QSHTT là phải nói đến quyền tài sản và phải có chế độ bảo vệ tài sản đó. Bảo vệ tài sản trí tuệ có thể được thực hiện bằng nhiều biện pháp, song cần chú ý đến việc bảo vệ bằng biện pháp dân sự. Để bảo vệ được tài sản trí tuệ cần có sự phối hợp của nhiều khâu và nhà nước phải tạo điều kiện thuận lợi để chủ thể được công nhận quyền tài sản đối với tài sản trí tuệ của mình thông qua các công đoạn như: nộp đơn, xem xét đơn, cấp văn bằng bảo hộ, giải quyết khiếu nại, tranh chấp để bảo vệ quyền…Đặc biệt, việc giải quyết khiếu nại, tranh chấp cần phải được coi trọng vì tài sản trí tuệ có đặc điểm là dễ xảy ra tranh chấp do việc sử dụng tài sản trí tuệ hoặc do quá trình đăng ký tài sản đó. Trong điều kiện toàn cầu hóa, những biến đổi cơ bản trong lĩnh vực SHCN của thế giới đã và sẽ tác động mạnh mẽ tới Việt Nam, do vậy chúng ta cần nhận thức việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về bảo vệ QSHCN bằng biện pháp dân sự là một việc làm cần thiết, qua đó, phải có sự điều chỉnh chính sách, điều chỉnh pháp luật đối với lĩnh vực này theo quan điểm thực tiễn và phát triển, đặc biệt là chính sách phát triển khoa học công nghệ.
Nghiên cứu và đề xuất các quy định về bảo vệ QSHCN bằng biện pháp dân sự là một lĩnh vực còn mới mẻ trong khoa học pháp lý ở Việt Nam. Với thời gian và trình độ của tác giả còn hạn chế, luận văn sẽ khó tránh khỏi những thiếu sót về nội dung và phương pháp trình bày. Vì vậy tác giả mong nhận được ý kiến chỉ dẫn của các nhà khoa học và của những người đọc luận văn này để tiếp thu và sửa chữa những thiết sót của luận văn./.