Ngôn Ngữ Đầy Ắp Chất Liệu Cuộc Sống Cần Lao, Phù Hợp Với Tâm Lý, Tính Cách Của Từng Kiểu Nhân Vật


vào sự đổi thay của xã hội. Không gian nghệ thuật ấy có lẽ chỉ xuất hiện trên những trang viết đầy chất thơ và lòng nhân ái của Nguyên Hồng.

4.3. Ngôn ngữ nghệ thuật

Như đã biết, “Văn học là nghệ thuật của ngôn từ” nên khi nghiên cứu một tác phẩm, một tác gia hay một trào lưu văn học, người ta không thể không nghiên cứu đến đặc điểm ngôn ngữ, sự sáng tạo ngôn ngữ nghệ thuật của nhà văn. Nhà văn có tạo ra cho mình một phong cách nghệ thuật riêng biệt hay không chính một phần cũng là bởi ngôn ngữ mang dấu ấn riêng biệt của từng nhà văn ấy. Bởi thực tế “ngôn từ là chất liệu của văn học”, “là lời nói được sử dụng với tất cả phẩm chất thẩm mỹ và khả năng nghệ thuật của nó”, “nói văn học là nghệ thuật ngôn từ, thực chất là nói văn học là nghệ thuật sử dụng câu văn, lời văn, bài văn (nói, viết) vào mục đích nghệ thuật” [93, tr. 183,184]. Nhìn chung, các nhà văn hiện thực như Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Nam Cao, Mạnh Phú Tư,… đều có ý thức vận dụng ngôn ngữ đời thường vào trong tác phẩm của mình, khai thác vốn ngôn ngữ dân tộc mộc mạc, bình dân, giản dị, gần gũi với đời sống của nhân dân lao động. Nguyễn Công Hoan cho rằng: “Khi văn chương mà viết đúng như tiếng nói của dân tộc thì nó hay, nó đứng vững mãi vì ngôn ngữ dân tộc là trường cửu, ít đổi thay vì thời thế”; Nam Cao quan niệm “Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể chỉ là tiếng nói đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than”; Vũ Trọng Phụng coi “tiểu thuyết là sự thật của đời”. Và Nguyên Hồng cũng đã có những nhận thức sâu sắc mối quan hệ máu thịt giữa nghệ thuật và cuộc sống, “Nghệ thuật phải bắt rễ từ cuộc sống”, thiếu cuộc sống nghệ thuật sẽ chết, nghệ thuật chân chính phải hướng vào cuộc sống để tìm nguồn sống “như rễ cây bám riết lấy lòng đất, càng sâu bao nhiêu càng vững chắc bấy nhiêu, nảy nở bấy nhiêu với những màu mỡ không bao giờ cạn…” (Hai dòng sữa). Vì vậy, các nhà văn hiện thực nói chung đã khai thác và sử dụng rất thành công thứ ngôn ngữ mộc mạc bình dân, gần gũi với lời ăn, tiếng nói hàng ngày của nhân dân lao động. Có thể nói, với những đóng góp của riêng mình, các nhà văn hiện thực, mỗi người mỗi vẻ, mỗi phong cách và mỗi cách sử dụng ngôn ngữ nghệ thuật khác nhau đã góp phần làm phong phú, giàu có thêm nền văn xuôi Việt Nam hiện đại.


Khảo sát toàn bộ những sáng tác của Nguyên Hồng giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, chúng tôi nhận thấy rằng: đặc điểm nổi bật về ngôn ngữ nghệ thuật của nhà văn chính là việc nhà văn đã sử dụng ngôn ngữ chứa đựng đầy ắp chất liệu cuộc sống cần lao, thứ ngôn ngữ phù hợp với tâm lý, tính cách của từng kiểu nhân vật và cũng là thứ ngôn ngữ mang sắc thái tôn giáo khá rò rệt.

4.3.1. Ngôn ngữ đầy ắp chất liệu cuộc sống cần lao, phù hợp với tâm lý, tính cách của từng kiểu nhân vật

4.3.1.1. Ngôn ngữ đầy ắp chất liệu cuộc sống cần lao với vốn từ vựng phong phú

Do hoàn cảnh riêng, Nguyên Hồng từ nhỏ đã phải sống trong một môi trường lao động cực nhọc, lam lũ của những con người sống dưới đáy xã hội đương thời, va chạm với đủ loại người trong xã hội ấy, nên nhà văn am hiểu sâu sắc những nỗi khổ đau, sự vất vả, cực nhục trong cuộc sống cũng như lời ăn, tiếng nói của họ. Vì thế, ngôn ngữ được sử dụng trong văn Nguyên Hồng là ngôn ngữ gắn bó sâu sắc, máu thịt với ngôn ngữ đời sống, được chắt ra từ những cuộc đời cần lao đau khổ. Đặc điểm này gắn liền với khuynh hướng thẩm mỹ của chủ nghĩa hiện thực. Đó là những từ ngữ giản dị, gần với lời ăn tiếng nói của tầng lớp lao động nghèo dưới đáy xã hội, những từ ngữ gắn với công việc lam lũ, cực nhọc; những từ ngữ của những người thuộc các thành phần phức tạp (giang hồ, trộm cướp…), và cả thứ ngôn ngữ mang dấu ấn của những người theo đạo Thiên chúa. Thứ ngôn ngữ mà nhà văn sử dụng thường phù hợp với đặc tính xã hội của nhân vật, phù hợp với các trạng thái tâm lý phức tạp của nhân vật trong từng trường hợp cụ thể. Trong sáng tác trước Cách mạng của Nguyên Hồng có nhiều loại nhân vật, như: nhân vật phụ nữ, nhân vật trẻ em, nhân vật trí thức, nhân vật lưu manh, trộm cắp, gái điếm… Ở mỗi loại nhân vật khác nhau, tác giả lại sử dụng các loại từ ngữ khác nhau phù hợp với tính cách, bản chất của nhân vật.

Điều đầu tiên, người ta dễ nhận thấy một trong đặc điểm ngôn ngữ nghệ thuật của Nguyên Hồng là một thứ ngôn ngữ rất giàu chất liệu cuộc sống, nó cứ “ngồn ngộn, ngồn ngộn chi tiết, đôi khi được cất lên, được tấp lên, được chằng buộc đến ngốt mắt” [116, tr. 239]. Hay nói cách khác, ngôn ngữ của Nguyên Hồng là thứ ngôn ngữ giàu chi tiết biểu hiện - mà một trong những phương thức, phương tiện thể hiện nhân vật quan trọng nhất chính là chi tiết. Chi tiết - đó là những biểu

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 185 trang tài liệu này.


hiện về mọi mặt của con người mà người ta có thể căn cứ để cảm biết về nó. “Sự tồn tại của các chi tiết là một trong những đặc trưng cơ bản của tác phẩm tự sự” (…). Trong truyện tình tiết, sự kiện quả là có vai trò quan trọng. Nhưng trung tâm của sự việc, của sự kiện, biến cố là con người, trung tâm của chi tiết, tình tiết là nhân vật” [136, tr. 124]. Trong thế giới nghệ thuật của nhà văn, nhân vật là một trong những yếu tố quan trọng. Nhưng để xây dựng được nhân vật thì nhà văn phải gắn nhân vật với những những tình tiết, chi tiết cụ thể, bởi: “Nếu tách nhân vật ra khỏi những tình tiết, chi tiết thì nó trở nên những con người chung chung, trừu tượng, mất hết sức sống. Ở đây, nhân vật chỉ có thể sống cuộc đời của nó qua những tình tiết, chi tiết”[136, tr. 125]. Vì vậy, Nguyên Hồng rất chú trọng đến chi tiết trong việc xây dựng nhân vật, ông sử dụng rất nhiều chi tiết cụ thể, sinh động trong câu văn để thể hiện, để chuyển tải hết những suy tư bộn bề, những hiểu biết, những cảm nhận sâu sắc của mình đối với cuộc sống, với con người xung quanh.

Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng thời kỳ trước năm 1945 - 17

Nguyên Hồng có một vốn sống rất giàu có, phong phú, nên mỗi khi đặt bút xuống là những dòng chữ đầy chi tiết cứ “cựa quậy phập phồng” và “lấp lánh sự sống” tuôn trào lên từng trang viết của nhà văn. Ngôn ngữ của Nguyên Hồng giàu chi tiết, thể hiện sự quan sát tỉ mỉ, đôi khi ta có cảm tưởng như ngòi bút của ông đã lăn xả vào cuộc sống, muốn lột trần nó ra để phơi bày tất cả những hiện thực đa chiều của cuộc sống, nhất là mặt đen tối, khuất lấp của nó để lật tẩy những gì là cặn bã, những gì là xấu xa, là vô nhân đạo nhất của xã hội đương thời.

Trong truyện ngắn Đi, tác giả miêu tả những người nông dân lũ lượt bỏ làng quê ra tỉnh để kiếm sống, tránh nạn đói đang cận kề. Thảm cảnh đó được nhà văn miêu tả cụ thể từng chi tiết: “Suốt hai bên đường, người đổ ra chỉ càng thêm đông. Xóm nào, làng nào cũng chỉ toàn người đi thôi. Bọn năm người, bọn mười người, có bọn hàng năm, sáu mươi người… Thỉnh thoảng, có vài cái xe tay ì ạch đi ngược lại thì người ta bâu lấy đen ngòm. Một cái quần vá đũng, một cái áo bợt vai, cả khuỷu tay, cả nách, một cái khăn vuông dúm mấy chỗ, một cái bao tải mướp, một cái màn như vó bè, một bát đĩa cóc cáy, một cái điếu bát cổ sứt sẹo bịt chi chít, một cái nồi đồng bẹp, một cái thau xoạc miệng… tất cả những đồ vật lăm lăm muốn trở thành cơm, thành khoai, thành ngô kia lại nhốn nháo giơ lên” [73, tr. 596]…

Như đã nói, ngôn ngữ của Nguyên Hồng mang đậm cá tính sáng tạo của ông, cái độc đáo của nhà văn là sử dụng những từ ngữ rất đỗi bình dân nhưng rất


giàu tính nghệ thuật. Nhà văn thường sử dụng những biện pháp tu từ (liệt kê, những từ láy, phép lặp, câu hỏi tu từ, tiếng lóng… - mang đậm dụng ý đặc tả, miêu tả rất chi tiết. Khảo sát một số sáng tác tiêu biểu của Nguyên Hồng, chúng tôi đã thấy: trong truyện ngắn Đi có dưới 10 trang truyện đã sử dụng 60 cặp từ láy; truyện vừa Qua những màn tối có 66 trang truyện đã sử dụng 66 cặp từ láy; tiểu thuyết Bỉ vỏ (khảo sát 50 trang đầu) có 258 cặp từ láy/50 trang; hồi ký Những ngày thơ ấu (khảo sát 50 trang đầu) có 204 cặp từ láy/50 trang… Cách sử dụng những biện pháp tu từ như điệp từ, liệt kê, từ láy… mang đậm dụng ý đặc tả như trên nhằm biểu thị trạng thái tột cùng của hành động, hoặc biểu đạt những sắc thái diễn ra phức tạp, tinh vi trong đời sống nội tâm của nhân vật.

Cũng trong truyện ngắn “Đi”, nhà văn đã dùng nhiều biện pháp tu từ như: phép lặp, phép liệt kê, những từ láy gợi cảm để miêu tả sự mệt mỏi, rã rời của những người dân quê phải bỏ làng đi kiếm sống: “Trước hai con mắt bừng bừng của y, càng rộn rậpnhững bước chân, những gồng gánh, những đùm chiếu, những sống lưng khặc khừ, những bụng mọng lặc lừ, những cái đùi tóp lẩy bẩy, những đầu óc bù xù, những đứa bé bèo nhèo, lờ ngờ. Và hai bên tai ù ùcủa y càng ran rannhững tiếng nói hổn hển, những tiếng gọi thất thanh, những tiếng ho sù sụ,

những tiếng rên thoi thóp, tiếng chửi, tiếng lạy van tiếng trách móc và những tiếng cười, những tiếng hát … Những tiếng cười hô hố, khách khách, những tiếng hát gào lên như điên dại…” [73, tr. 596].

Trong truyện vừa “Qua những màn tối”, nhà văn đã dùng nhiều biện pháp tu từ như: liệt kê, từ láy gợi cảm và biểu cảm để miêu tả tâm trạng nhân vật Trung khi nghĩ về quá khứ êm đềm: “Lòng Trung lại rưng rưng muốn khóc và lần lượt bao nhiêu hình ảnh của cái đêm trước kia khi lìa bỏ quê hương lại xuất hiện. Dưới ánh trăng xanh

biêng biếc sáng, mình Trung lủi thủi bước thong thả trên những bóng lá xanh nhợt rungrinh ngả trên đường đất nâu bạc gồ ghề. Mùi hoa cau hiền lành thoang thoảng. Tiếng sáo diều mơ hồ. Thỉnh thoảng gió cuồn cuộn lồng lên, dào dạt lướt những lớp sóng lấplánh như thiếc trên đồng lúa, tỏa rộng mùi tám thơm ấm và ngọt” [74, tr. 23].

Miêu tả một cách chi tiết, sinh động như vậy, chứng tỏ vốn từ vựng của Nguyên Hồng vô cùng phong phú. Một số nhà nghiên cứu đã phát hiện ra là: Nguyên Hồng rất có tài tả nắng. Quả vậy, chỉ trong truyện Một trưa nắng chỉ vẻn


vẹn hơn 7 trang, nhưng nhà văn đã có rất nhiều những từ ngữ khác nhau để miêu tả nắng. Nắng là “thác lửa ngùn ngụt chói lòa mặt trời”, “biển lửa mênh mông”, “nắng chang chang”, “mặt trời vầng lửa đỏ rực”, “nắng xém lại”, “nắng ngây ngất”, “tiếng cháy sôi của nắng”, “nắng chói chang”, “tia nắng chói xuống mắt”, “nắng vàng rực” [73, tr. 473]. Vốn từ vựng phong phú đã giúp Nguyên Hồng có những trang tả nắng đặc sắc, “Miêu tả cát bụi và ánh sáng là tín hiệu thẩm mỹ đặc biệt trong lời văn trần thuật của nhà văn” [101, tr. 71]. Hay miêu tả sự khốn cùng, thảm hại của con người khi đứng bên vực thẳm của nạn đói năm 1945, nhà văn chọn miêu tả nét mặt người: “phờ phạc, đen xám lại” [73, tr. 679], “phờ phạc, xanh xám hơn, lờ đờ nhìn” [73, tr. 596], “mặt mày vêu vao”, “thần mặt”, “nhợt nhạt”, “mắt vàng lờ”, “mắt trắng lờ đờ”, “mắt lờ ngờ”, “nhìn trừng trừng”, [73, tr. 597], “mặt ai nấy đều nhăn nhúm phờ phạc… sắc mặt đen xạm… những con mắt vàng lờ sâu hoắm” [73, tr. 613]… Hay sử dụng các động từ biểu thị sự tranh giành quyết liệt vì sự sống: “họ cứ lăn xả vào các hàng, đè sấn lên nhau mà nhặt những hạt cơm rụng. Họ móc cả mồm mà giật những lá bánh, gói cơm, gói cá. Lắm người vứt cả con đi để cướp cái vỏ chuối giằng từ mồm người ăn xuống và tranh nhau đến nỗi vỏ chuối đã gí bét với đất mà vẫn cứ quào lấy mà ăn” [73, tr. 597]…

Sự sống được khắc họa qua lời văn của Nguyên Hồng không chỉ hiện lên một cách rất chi tiết mà còn rất giàu cảm xúc - những cảm xúc tinh tế làm rung động trái tim người đọc bởi sự cảm thông sâu sắc và những nỗi niềm trắc ẩn khôn nguôi đối với những con người bị dồn đẩy, bị xã hội ruồng bỏ. Hãy lắng nghe câu văn Nguyên Hồng khi ông miêu tả giọng hát nẫu ruột, tê tái của đám dân “chạy vỏ” qua những ngôn từ đầy gợi cảm:“Những câu hát ấy chỉ thấy cất lên trong những khi mưa gió buồn bã mà một trinh không dính túi, hay sắp lâm vào bước gian nan cảnh tù tội. Không biết ai đã đặt ra những câu hát ấy, và ai đã dùng cái giọng lẳng lơ, bổng không ra bổng, chìm không ra chìm, lờ lờ từ từ như dòng nước xanh rêu nhờn nhụa chảy vào một vũng tối - cái giọng nôm na gọi là giọng nhà thổ ế - để bấy giờ nó trở thành câu hát cửa miệng từ trẻ con đến người lớn trong cái xã hội ăn cắp tối tăm kia(Bỉ vỏ). Nguyên Hồng đã sử dụng những từ ngữ, biệt ngữ mà chỉ riêng đám dân chạy vỏ mới hiểu được, đó là sự cô đơn cùng cực, là sự đau đớn khôn cùng, những nỗi niềm tê tái của những con người “cực chẳng đã” phải “chạy vỏ” để kiếm sống. Ngôn ngữ đặc sắc hòa cùng với một giọng


văn đầy cảm xúc trăn trở cho những kiếp người cùng khổ tạo nên sự ám ảnh không nguôi đối với người đọc về những kiếp người bé nhỏ, mong manh, vô nghĩa trong xã hội cũ. Nhiều khi không kìm nén được cảm xúc của mình, nhà văn phải kêu lên khi miêu tả những nỗi đớn đau, bất hạnh của con người: “Lẽ nào lại như thế được? Tại sao lại như thế được? Có bao giờ tìm sự giải quyết ở trời?... Bao nhiêu buổi chiều như thế? Đã mấy trăm buổi chiều như thế?”… Có rất nhiều những câu hỏi tu từ như vậy để thể hiện nỗi niềm cảm thương vô hạn của nhà văn đối với những người cùng khổ, cùng đường trong một xã hội đầy cạm bẫy và bất công.

Là một nhà văn thiết tha yêu cuộc sống, yêu con người nên hình như cái khuôn khổ của những câu văn ngắn không diễn đạt được cho thỏa tình ý chất chứa trong trái tim của nhà văn, nên nó đã phải thể hiện trong những câu văn dài, với “Những dòng chữ đầy chi tiết cứ cựa quậy, phập phồng. Một thứ văn bám riết lấy cuộc đời, quấn quýt lấy con người” (Nguyễn Đăng Mạnh).

Bênh vực và xót thương cho số phận người phụ nữ và trẻ em nghèo trong xã hội cũ, nhà văn kêu lên những lời khẩn cầu thống thiết cho cuộc sống của họ bằng một loạt những câu văn dài với ngôn ngữ cảm động, thấm đẫm một tình cảm yêu thương: “Phải đem sữa lại cho những người mẹ hiền nhiều con dại ở các nước bị chiến tranh tàn phá; những người mẹ đương để tang cha, chồng, anh em; những người mẹ đương phải thay những người đã chết vì chiến tranh kia, làm đủ mọi việc để có đủ quần áo và lương thực cho tụi quân lính hung hãn đi xâm chiếm các nước yếu hèn.

Phải trả sữa lại cho những cái miệng bé nhỏ há rộng, lưỡi gần cứng đó, dưới những bầu vú lép. Những cái miệng khát sữa chờ mong trong khi những mụ đàn bà phú hào quý tộc tắm bằng sữa cho da thịt mịn màng, trong khi bọn tư sản đổ hàng ngàn, vạn thùng sữa xuống biển để có thể bán nốt chỗ sữa còn lại với giá đắt trong thời kỳ kinh tế khủng hoảng…” [73, tr. 187].

Hoặc thể hiện sự đồng cảm sâu sắc của nhân vật cậu bé An (Mợ Du) khi chứng kiến cảnh ngộ éo le của hai mẹ con Mợ Du, “Tuy còn nhỏ tuổi, nhưng chỉ nghe mợ Du nói ngần ấy câu, tôi nhận thấy ngay tại sao lại có sự gặp mặt vụng trộm giữa hai mẹ con nhà này, và tôi cảm thấy rò ràng sự lo lắng và đau khổ của người đàn bà đã bị đuổi ra khỏi của một gia đình nay lẩn lút trở về để được thăm nom con giây phút” [73, tr. 190]. Có lẽ do “Ngôn từ là lời nói vốn lấy câu làm cơ sở


nên nó tương ứng với những hình thức tạo hình và biểu hiện trong văn học, ứng với sự phản ánh các tương quan, quan hệ đời sống thực tại” [93, tr. 183] - Vì thế mà Nguyên Hồng hay sử dụng những câu văn dài với vốn từ vựng phong phú, nhiều chi tiết như vậy để khẩn cầu cho những kiếp người cùng khổ như mẹ bé Hồng, Tám Bính, mụ Mão, Tần, Nhân… Những câu văn ấy được Nguyên Hồng viết bằng cả một tình thương và một sự cảm thông không kiềm chế được. Người ta có cảm tưởng rằng, dưới đáy sâu của mỗi câu văn Nguyên Hồng là cả một sự cảm thương sâu sắc đối với từng số phận con người (đặc biệt là số phận người phụ nữ và trẻ em). Nguyên Hồng lý giải nỗi đau khổ của những trẻ em nghèo bằng tình cảm yêu thương của người cùng cảnh ngộ: “Cảnh đời đày đọa của chúng như phải có cái mà say sưa trong bê tha kia để mà an ủi. Và mỗi một tính cách tinh nghịch, quỷ quái gian ác là kết quả của cái gia đình trụy lạc, hoặc vì một người cha cờ bạc rượu chè, hút sách rạc rài, hoặc vì người mẹ dốt nát đanh đá quá, hoặc vì sự tàn tật đến kết liễu một đời làm việc tối tăm, hoặc cái chết thê thảm đã bóp nghẹt một đời sống chỉ để nhẫn nhục và đau khổ” [73, tr. 242]. Quả thực Nguyên Hồng đã “rút ruột” mình ra để viết, “vắt kiệt mình ra” để tâm tư với cuộc đời, với số phận nghiệt ngã của những con người dưới đáy xã hội, nhà văn của “thập loại chúng sinh” ấy lấy từ trong lòng xã hội “thập loại chúng sinh” bước ra, cầm lấy cây bút sắt chấm vào mồ hôi, nước mắt và máu của mình và viết ra văn chương của riêng mình” [116, tr. 378]. Phải có một lòng cảm thông sâu sắc, với những người cùng khổ thì nhà văn mới có những câu văn trĩu nặng một nỗi đau khôn cùng như vậy, “như ta đã thấy, bao nhiêu xương thịt tan tành thối nát, bao nhiêu nước mắt và máu đã lụt ngập tỉnh thành, bao nhiêu sinh mệnh đã chết và đương chết trong cảnh đói rét nên một đám người hả hê sung sướng mà có bao giờ tìm ra được sự giải quyết ở trời?” [73, tr. 156]…

Ta thấy, ngôn ngữ của Nguyên Hồng không chỉ giàu chi tiết và cảm xúc mà còn giàu hình ảnh, những hình ảnh được thể hiện một cách tỉ mỉ và sinh động. Dường như nhà văn đã hòa vào với nhân vật để quan sát cụ thể sự sống, cảnh đời, tình đời và say sưa, hối hả “tấp lên”, chằng buộc lên những câu văn. Sự kiện, hiện tượng cuộc sống và tình cảm của nhà văn cứ xoắn xuýt, cuộn chảy trong câu văn. Ví dụ như đoạn nhà văn miêu tả sự hồi tưởng của Bính vào một buổi chiều trong


Bỉ vỏ chẳng hạn: “Nắng đã xế bóng. Trời của một buổi chiều mùa đông ấm áp, rực

rỡ. Trời cao và mây sáng, mây trắng như bông, như tuyết trôi về phía xa.

Trên bờ đê, dưới rặng xoan lao xao, phấp phới, phu phen thợ thuyền đã về hầm. Những chiếc mũ dạ lấm láp hắt ánh nắng và bụi. Những nón lá vàng rực lên.

Những lồng ngực bóng nhẫy phơi ra giữa những tà áo vải thô nhuộm xanh. Những chiếc quần láng cộc nổi gọn lên những bắp chân tròn trĩnh đầy mạt than và cát lấm tấm như vảy bạc. Những bao gạo lấm láp quấn đằng trước theo những bước chân hắt ra những làn bụi nhảy múa” [74, tr. 372]. Hoặc trong một đoạn văn miêu tả một cách tường tận tỉ mỉ, chi tiết đối tượng miêu tả, là căn nhà ổ chuột của một gia đình nghèo khổ như: “Cái gia đình lam lũ kia vẫn lúc nhúc trong gian nhà úpxúp và hôi nồng đã ba năm không vật gì mới hiện ra dưới những mái lá tối mờ. Vẫn cái giường tre đu đưa kêu răng rắc mỗi lần những đứa trẻ nhún nhẩy, những cái phản lè tè mọt nghiến rền rĩ vẫn cái bàn mất chân buộc vào cột vách. Trưa hè, dưới nắng lửa, vẫn những làn bụi lầm lên chập chờn. Ngày mưa to gió lớn, trên mặt đất ngập nước và rác rưởi, người cha vẫn làm thuyền cho những đứa trẻ chơi...” (Nhà bố Nấu).

Hay trường hợp miêu tả nhân vật Quang (trong Lửa thiêu) khi anh ta chứng kiến một buổi tổ chức Đại hội cứu tế tại Nhà hát lớn của những kẻ làm tay sai cho Pháp, anh đã không giấu nổi sự căm hờn, khinh bỉ và phẫn uất. Tâm trạng của Quang được tác giả khắc họa rò nét qua những ngôn từ giàu sắc thái biểu đạt như: “Chúng hòa nhạc, chúng tung hoa, chúng bán hoa, chúng quăng tiền, chúng thu tiền và chúng cười, vỗ tay, reo hò ầm ầm…”, “ Những cố vấn đại thần, những thượng thư, những tai nọ, mặt kia, giàu sang nhất nhì. Những cái bụng lặc lè…

Những cái má sề sệ… những gươm lê thê sáng loáng. Những lon vàng chỉ bạc, bài ngà, hoa vóc… những cái đầu bóng soi gương được… những cái mặt lồm lộp không thể cái gì nhẵn lì hơn được… những bộ ngực, những cặp môi không thể cái gì núng nính hơn được. Cả một phè phỡn mê tơi… cả một mùi thơm nồng nặc… cả một ánh sáng rực người” [73, tr. 638].

Ta luôn gặp trong tác phẩm của Nguyên Hồng một thứ ngôn ngữ phong phú đến mức “bề bộn”, luôn “lấp lánh sự sống”. Văn và câu văn của Nguyên Hồng vì thế mà đã xác lập một chỗ đứng riêng, tạo dấu ấn riêng, khó phai trong tâm trí

Xem tất cả 185 trang.

Ngày đăng: 20/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí