trong năm, nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế, đưa ra chương trình công tác năm tiếp theo theo chỉ đạo của Cơ quan Thanh tra giám sát và Giám đốc NHNN chi nhánh tỉnh. Từ năm 2016 đến năm 2020, TTGS NHNN chi nhánh tỉnh luôn triển khai thực hiện tốt chương trình công tác đã đề ra; hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao và nhiệm vụ theo chỉ đạo của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng; kịp thời ban hành các văn bản chỉ đạo các TCTD trên địa bàn về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại tố cáo và phòng chống tham nhũng, tội phạm...góp phần tích cực để hoạt động ngân hàng trên địa bàn an toàn, hiệu quả.
Những kết quả đạt được thể hiện ở một số mặt, cụ thể như sau:
Một là, về thực hiện kế hoạch thanh tra: Hàng năm TTGS NHNN chi nhánh tỉnh Bắc Giang đã thực hiện nghiêm túc theo kế hoạch thanh tra đặt ra, hoàn thành 100% kế hoạch thanh tra. Kế hoạch thanh tra hàng năm được xây dựng bảo đảm đúng chỉ đạo của Cơ quan Thanh tra giám sát NHNN Việt Nam, phù hợp với thực tế hoạt động các TCTD trên địa bàn. Các cuộc thanh tra cơ bản được thực hiện theo đúng kế hoạch và đảm bảo tiến độ thời gian.
Hai là, về tần suất thực hiện thanh tra: Đảm bảo được tần suất thanh tra phù hợp. Do hiện tại số lượng các TCTD trên địa bàn khá nhiều nên để đảm bảo cho các TCTD hoạt động an toàn hiệu quả. Tần suất khá ổn định nên đảm bảo các TCTD vừa được quản lý qua hệ thống giám sát ngân hàng, vừa được cảnh báo những rủi ro qua thanh tra tại chỗ, đảm bảo cho quá trình hoạt động an toàn và hiệu quả.
Ba là, số cuộc thanh tra phải thanh tra lại: Giai đoạn 2016 – 2020 không có cuộc thanh tra nào phải tiến hành thanh tra lại, điều này cho thấy trình độ của các thành viên đoàn thanh tra khá tốt, các tồn tại, hạn chế, sai phạm được phản ảnh đúng và được kiến nghị kịp thời.
Bốn là, việc phát hiện và ngăn ngừa những sai phạm có nguy cơ gây rủi ro : TTGS chi nhánh cơ bản đã thực hiện tốt chức năng của mình trong công tác thanh tra tại chỗ, thông qua các nội dung thanh tra, TTGS chi nhánh đã kịp thời phát hiện trên nhiều lượt vi phạm, đưa ra nhiều khuyến nghị, kiến nghị chấn chỉnh, khắc phục, đưa hoạt động ngân hàng vào khuôn khổ, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, kỷ
cương..., cụ thể như sau:
- Thanh tra việc chấp hành pháp luật, việc thực hiện các quy định trong giấy phép do Ngân hàng nhà nước cấp, gồm các nội dung hoạt động chủ yếu, phức tạp và chứa đựng nhiều rủi ro, vi phạm của đối tượng thanh tra. TTGS NHNN Chi nhánh tỉnh Bắc Giang đã tập trung thực hiện tốt công tác thanh tra về các nội dung hoạt động này, thể hiện qua việc: thanh tra giám sát ưu tiên thời gian, lực lượng thanh tra hoạt động cấp tín dụng, một yêu cầu tất yếu trong giai đoạn hiện nay của công tác thanh tra, giám sát vì hoạt động tín dụng chứa đựng nhiều rủi ro và ngày càng diễn biến phức tạp. Tăng cường thanh tra nội dung hoạt động này còn nhằm đánh giá chất lượng tín dụng tại các TCTD để phục vụ cho việc xử lý nợ xấu, cơ cấu lại hệ thống TCTD. Qua thanh tra kịp thời phát hiện trên nhiều lượt vi phạm, đưa ra những yêu cầu, kiến nghị chấn chỉnh, khắc phục, đưa hoạt động ngân hàng vào khuôn khổ, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật... góp phần thực hiện tốt công tác đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng.
Có thể bạn quan tâm!
- Tổ Chức Bộ Máy Thanh Tra Giám Sát Tại Nhnn Chi Nhánh Tỉnh Bắc Giang
- Quy Trình Thanh Tra Tctd Tại Nhnn Chi Nhánh Tỉnh Bắc Giang
- Tình Hình Thanh Tra, Đánh Giá, Mức Độ Rủi Ro, Năng Lực Quản Trị Rủi Ro Và Tình Hình Tài Chính Của Đối Tượng Thanh Tra Tại Ttgsnhnn - Chi Nhánh
- Định Hướng Hoạt Động Ngành Ngân Hàng Trên Địa Bàn Tỉnh Bắc Giang Đến
- Thanh tra tổ chức tín dụng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam - Chi nhánh tỉnh Bắc Giang - 11
- Thanh tra tổ chức tín dụng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam - Chi nhánh tỉnh Bắc Giang - 12
Xem toàn bộ 105 trang tài liệu này.
- Hoạt động thanh tra, đánh giá, mức độ rủi ro, năng lực quản trị rủi ro và tình hình tài chính của đối tượng thanh tra đã được quan tâm thực hiện với số lượng đơn vị được thanh tra ngày càng tăng. Điều này phù hợp với xu hướng dần chuyển sang thanh tra trên cơ sở rủi ro. Qua thanh tra đã đưa ra các kiến nghị chấn chỉnh, xử lý, góp phần đưa hoạt động tín dụng về đúng thực trạng chất lượng, tăng khả năng chống đỡ rủi ro, kiện toàn bộ máy hoạt động, nâng cao năng lực điều hành quản trị cũng như việc ban hành các quy chế hoạt động tại các TCTD.
Năm là, xử lý và kiến nghị xử lý các sai phạm, dấu hiệu rủi ro đối với các TCTD: Chất lượng các cuộc thanh tra, mức độ phát hiện và ngăn ngừa các vi phạm trong hoạt động của TCTD ngày một cao hơn. Qua thanh tra tại chỗ đoàn thanh tra đã đưa ra những kiến nghị, yêu cầu TCTD chỉnh sửa kịp thời những tồn tại theo kết luận thanh tra, và xử lý đơn vị có hành vi vi phạm trong hoạt động ngân hàng. Trong giai đoạn vừa qua, các các kiến nghị, quyết định xử lý thanh tra được các TCTD nghiêm túc thực hiện đã góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ, hoạt động ngân hàng của NHNN Chi nhánh tỉnh Bắc Giang.
Sáu là, kết quả khắc phục chấn chỉnh của các TCTD sau thanh tra đều được thực hiện tốt, hầu hết các kiến nghị đưa ra cho đơn vị thanh tra đều là những kiến nghị có thể sửa chữa được, bởi quan điểm của Thanh tra chi nhánh là giúp đơn vị khắc phục những sai phạm đã xảy ra, không để tái phạm và thực hiện đúng quy định của pháp luật nhằm đảm bảo hoạt động an toàn hiệu quả.
- Việc thanh tra giám sát việc thực hiện kiến nghị sau thanh và thực hiện quyết định xử lý của các cấp có thẩm quyền đã giúp TTGS nắm được kết quả thanh tra, kiểm tra trước đó của các cơ quan, đơn vị khác, từ đó phát hiện những tồn tại hạn chế của đối tượng thanh tra từ kết quả thanh tra trước.
2.3.2. Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân
2.3.2.1. Tồn tại, hạn chế
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt động thanh tra trong thời gian qua còn một số tồn tại, hạn chế:
Một là, mức độ hoàn thành kế hoạch: Kế hoạch thanh tra hằng năm tuy đều hoàn thành nhưng chưa chủ động về mặt thời gian, nhân lực, một số năm bị dồn nhiều vào những tháng cuối năm, gây áp lực công việc lên đội ngũ cán bộ thanh tra, phần nào ảnh hưởng đến chất lượng thanh tra.
Hai là, mức độ phát hiện và ngăn ngừa sai phạm: Chất lượng một số cuộc thanh tra chưa cao, chưa đánh giá đúng thực trạng của TCTD, kết quả các cuộc thanh tra chủ yếu dừng lại ở việc phát hiện các vi phạm đơn thuần trong các nghiệp vụ kinh doanh, chưa phát hiện được nhiều các vi phạm có tính phức tạp. Trong hoạt động thanh tra một số mảng hoạt động của các TCTD đã được tập trung, ưu tiên nhưng chủ yếu là thanh tra ở các hoạt động tín dụng, huy động. Các nội dung hoạt động như công tác thanh toán, công tác hạch toán, thu chi tài chính, công tác kho quỹ... là các nội dung cũng chứa đựng nhiều vi phạm nhưng chưa được quan tâm thanh tra, số lượng đơn vị được thanh tra các nội dung này hằng năm còn ít. Việc thanh tra, đánh giá rủi ro trong quản trị điều hành, năng lực tài chính là nội dung quan trọng nhưng số lượng TCTD được thanh tra ít, chủ yếu tập trung QTDND, việc phát hiện các các dấu hiệu rủi ro, những tồn tại, hạn chế trong quản trị rủi ro, quản trị điều hành, năng
lực tài chính của đối tượng thanh chỉ được phát hiện ở mức độ vừa phải, chưa sâu vào các nghiệp vụ. Như vậy, công tác thanh tra còn chưa bao quát được tổng thể, do đó chưa nắm bắt được hết những rủi ro trong hoạt động ngân hàng.
Ba là, tần suất thực hiện thanh tra: Tần suất thanh tra đối với mỗi một TCTD tuy có ổn định nhưng chưa cao. Với tần suất bốn đến năm năm thanh tra một lần, thanh tra Chi nhánh sẽ khó đánh giá và phát hiện kịp thời những rủi ro có thể xảy ra gây mất an toàn đối với hoạt động của TCTD trên địa bàn.
Bốn là, vấn đề xử lý và kiến nghị xử lý các sai phạm: Việc xử phạt vi phạm hành chính của thanh tra NHNN chi nhánh tỉnh chưa thực sự quyết liệt, đối tượng xử phạt vi phạm hành chính chủ yếu là QTDND, hầu như chưa xử lý vi phạm hành chính đối với các NHTM; số lượng, mức độ xử phạt vi phạm chưa nhiều. Các kết luận thanh tra chủ yếu là đưa ra các yêu cầu kiến nghị chấn chỉnh, khắc phục.
Năm là, kết quả khắc phục, chấn chỉnh của các đơn vị được thanh tra: Số cuộc thanh tra hằng năm về việc thực hiện xử lý, kiến nghị sau thanh tra và quy định xử lý của cấp có thẩm quyền còn khiêm tốn so với số lượng đối tượng thanh tra trên địa bàn. Do đó, thực tế về việc thực hiện chấn chỉnh, xử lý kiến nghị sau thanh tra của một số đối tượng như thế nào thì thanh tra chi nhánh chưa đánh giá được đúng sự thật mà chỉ nắm tình hình qua báo cáo của đối tượng thanh tra. Một số trường hợp đối tượng thanh tra chỉ thực hiện việc chấn chỉnh, khắc phục mang tính hình thức, đối phó, việc làm rõ trách nhiệm và xử lý đối với các tập thể cá nhân liên quan còn chưa thực hiện triệt để (NHNN tỉnh Bắc Giang, 2020).
2.3.2.2. Nguyên nhân
Những tồn tại, hạn chế trong công tác thanh tra giám sát trên của thanh traNHNN - Chi nhánh tỉnh Bắc Giang xuất phát từ các nguyên nhân chủ yếu sau:
Thứ nhất, vấn đề tồn tại về mức độ hoàn thành kế hoạch là do:
Mô hình tổ chức bộ máy TTGS ngân hàng còn chồng chéo và chưa thống nhất. Hiện nay, thanh tra NHNN Chi nhánh tỉnh Bắc Giang vừa chịu sự quản lý, chỉ đạo trực tiếp của Giám đốc NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố, vừa chịu sự quản lý, chỉ đạo của Cơ quan TTGS ngân hàng. Do đó, tính độc lập, tự chịu trách nhiệm của
Thanh tra NHNN Chi nhánh tỉnh Bắc Giang chưa cao, vừa phải thực hiện thanh tra theo Kế hoạch đã xây dựng, vừa phải thanh tra đột xuất theo chỉ đạo của Cơ quan TTGS ngân hàng nên đôi khi còn bị động trong thực hiện nhiệm vụ, làm giảm hiệu quả công việc.
Thứ hai, vấn đề tồn tại về mức độ phát hiện và ngăn ngừa sai phạm là do:
- Nguyên nhân từ phía lực lượng TTGS tại Chi nhánh vừa chưa đủ về số lượng, chưa tương xứng so với số lượng, quy mô hoạt động các TCTD trên địa bàn, vừa chưa đồng đều về trình độ nghiệp vụ chuyên môn, thể hiện ở chỗ:
+ Số lượng cán bộ tham gia một đoàn thanh tra ít, thông thường một đoàn thanh tra chỉ có 4-5 người. Trong khi việc xác định nội dung thanh tra tại các cuộc thanh tra khá dàn trải vào hầu hết các mặt hoạt động trong thời gian thanh tra ngắn (thường mỗi cuộc thanh tra chỉ kéo dài 20 đến 25 ngày làm việc đối với các chi nhánh NHTM và 7 đến 10 ngày đối với QTDND) nên đoàn thanh tra không có điều kiện để thanh tra sâu vào các nội dung thanh tra.
+ Cán bộ thanh tra vừa phải tiến hành thanh tra theo nhiệm vụ, vừa phải thực hiện công tác giám sát nên ảnh hưởng nhiều đến chất lượng công tác. Trình độ cán bộ thanh tra còn yếu ở một số kỹ năng như nhận định, phân tích báo cáo... Số cán bộ có kinh nghiệm có khả năng nhận diện dấu hiệu, có kỹ năng phân tích, đánh giá và phát hiện nhanh vi phạm, tồn tại còn khiêm tốn. Một số cán bộ còn hạn chế trong việc tiếp cận và thực thi các thông lệ chuẩn mực quốc tế cũng như chuẩn mực về thanh tra trên cơ sở rủi ro, đặc biệt là tiếp cận các nghiệp vụ mới.
- Nguyên nhân từ phía đoàn thanh tra: trong quá trình thanh tra, Đoàn thanh tra thường chọn mẫu quá lớn, số lượng hồ sơ thanh tra nhiều nên khó khăn trong việc xem xét kỹ từng hồ sơ, dễ dẫn đến bỏ lọt sai phạm. Bên cạnh đó, các đoàn thanh tra thường tập trung nhiều thời gian vào việc kiểm tra hồ sơ, thời gian đi đối chiếu trực tiếp khách hàng ít nên việc phát hiện ra các sai phạm bị hạn chế. Qúa trình đi đối chiếu trực tiếp khách hàng, một số cán bộ thanh tra còn thiếu kinh nghiệm thực tế nên bị hạn chế trong việc khai thác thông tin thực tế từ phía khách hàng.
- Nguyên nhân từ cơ sở vật chất hỗ trợ cho TTGS chưa theo kịp với tốc độ phát triển công nghệ thông tin; hệ thống công nghệ thông tin dù đã được nâng cấp, cải tiến nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu công việc. Nội dung và hệ thống các tiêu chí giám sát, hệ thống các báo cáo bắt buộc phục vụ TTGS đối với các TCTD đang trong quá trình hoàn thiện. Một số máy móc, thiết bị như như máy tính xách tay, máy ghi âm, máy ảnh chưa được trang bị.
- Nguyên nhân từ bản thân các đối tượng thanh tra chưa thực sự nhận thức đúng đắn về vai trò của công tác thanh của Ngân hàng nhà nước. Thực tế cho thấy một đối tượng thanh tra cho rằng thanh tra Ngân hàng đến thanh tra, kiểm tra là để bắt lỗi và xử lý vi phạm. Vì vậy thường có động thái cố tình che giấu sai phạm, bất hợp tác, không chấp hành đúng quy định nên hoạt động thanh tra gặp nhiều khó khăn trong khai thác thông tin và phát hiện sai phạm, rủi ro. Mặt khác, chế độ và chất lượng thông tin báo cáo của các đối tượng thanh tra chưa thực hiện nghiêm túc cũng làm giảm chất lượng của hoạt động thanh tra.
- Nguyên nhân từ phần mềm hỗ trợ công tác thanh tra, giám sát ngân hàng: phần mềm giám sát đang sử dụng được xây dựng trên hệ quản trị cơ sở dữ hiện đã lỗi thời; sự thay đổi trong cơ chế vận hành hoạt động giám sát ngân hàng cũng như hành lang pháp lý còn lạc hậu chưa đáp ứng được yêu cầu thanh tra. Hoạt động giám sát còn chưa phát huy được tính ưu việt của phương pháp này; quy trình giám sát rườm rà; dữ liệu đầu vào thiếu tính cập nhật, không đảm bảo tính chủ động, tính kịp thời, tính chính xác, do vậy việc giám sát mang nặng tính hình thức, không có hiệu quả đáng kể trong phát hiện và cảnh báo sớm về rủi ro, khả năng hỗ trợ cho thanh tra tại chỗ thấp. Mặc dù hoạt động giám sát đã phân tích, đánh giá ngân hàng theo nhiều tiêu chí nhưng các tiêu chí đánh giá còn chưa đảm bảo tính kịp thời. Kĩ năng phân tích của cán bộ thanh tra còn chưa sâu và cũng chưa dành thời gian thích đáng cho công tác phân tích giám sát, đặc biệt là trong thời kỳ "cao điểm" của thanh tra tại chỗ, cán bộ, thanh tra viên của chi nhánh đều huy động vào các đoàn thanh tra thì công tác giám sát và phân tích giám sát chưa được chú trọng. Bên cạnh đó, sự kết hợp giữa giám sát và thanh tra tại chỗ chưa thực sự hiệu quả như mong muốn. Kết quả giám sát chỉ góp
phần nhỏ cho công tác thanh tra tại chỗ, còn phần lớn hoạt động của TCTD được xem xét kỹ hơn khi thực hiện thanh tra tại chỗ.
- Nguyên nhân từ việc khai thác các nguồn thông tin phục vụ công tác thanh tra chưa được thực hiện hiệu quả. Chưa phối hợp, tận dụng, tranh thủ khai thác các nguồn thông tin từ các cơ quan chức năng khác như công an, hải quan, quản lý thị trường...
- Nguyên nhân từ khung pháp lý về hoạt động thanh tra ngân hàng chưa được hoàn thiện là nguyên nhân cơ bản dẫn đến những hạn chế trên. Chưa thống nhất được nội dung các văn bản trong hoạt động thanh tra chuyên ngành, việc ban hành văn bản còn chưa tính toán hết, chưa lường trước được các vấn đề nảy sinh nên còn chưa sát thực tế, dẫn đến phải thay đổi, sửa đổi, bổ sung nhiều, gây khó khăn cho việc theo dõi và bổ sung kiến thức, chuẩn mực thanh tra. Phần lớn chính sách pháp luật có liên quan đến tổ chức và hoạt động của thanh tra ngân hàng, đến hoạt động của các ngân hàng mặc dù đã được bổ sung, sửa đổi nhưng vẫn chưa đáp ứng được kịp thời các đòi hỏi của nền kinh tế;
Thứ ba, vấn đề tồn tại về tần suất thực hiện thanh tra : do đối tượng TTGS nhiều, nên tần suất thanh tra đối với một đối tượng thanh tra còn thấp dẫn đến việc phát hiện vi phạm, cảnh báo rủi ro không được kịp thời.
Thứ tư, vấn đề tồn tại vềxử lý và kiến nghị xử lý các sai phạm: Việc xử phạm những hành vi vi phạm hành chính còn chưa nhiều để đảm bảo tính răn đe đối với các TCTD trên địa bàn do NHNN chi nhánh tỉnh vẫn còn nể nang, chưa quyết liệt.
Thứ năm, vấn đề tồn tại về kêt quả khắc phục, chấn chỉnh sau thanh tra: Một số kiến nghị chỉnh sửa sau thanh tra thiếu linh hoạt về thời gian thực hiện nên trong quá trình chỉnh sửa một số đơn vị phát sinh khó khăn, vướng mắc. Bên cạnh đó tần suất thanh tra chưa cao làm cho các ngân hàng không chú trọng đến việc duy trì việc chấn chỉnh không để tái phạm những sai phạm sau thanh tra, khi đã hoàn tất việc chỉnh sửa theo yêu cầu của kiến nghị đã nêu tại kết luận thanh tra.
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG THANH TRA TCTD TẠI NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC CHI NHÁNH TỈNH BẮC GIANG
3.1. Định hướng hoàn thiện công tác thanh tra TCTD tại Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh Bắc Giang đến năm 2025
3.1.1. Định hướng phát triển ngành ngân hàng tỉnh Bắc Giang đến 2025
3.1.1.1. Định hướng phát triển ngành ngân hàng đến năm 2025
Ngày 8/8/2018, Chính phủ đã ban hành Quyết định số Quyết định 986/QĐ-TTg về Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.
Theo đó, chiến lược nêu rõ quan điểm của Chính phủ coi hệ thống tiền tệ, ngân hàng và hoạt động của các TCTD là huyết mạch của nền kinh tế, tiếp tục giữ vai trò trọng yếu trong tổng thể hệ thống tài chính Việt Nam. Ổn định hoạt động của hệ thống TCTD đóng vai trò chủ chốt trong ổn định tiền tệ và ổn định tài chính, là điều kiện tiên quyết để ổn định kinh tế vĩ mô, tăng trưởng bền vững và phải được đảm bảo bằng sự phối hợp đồng bộ, hiệu quả giữa chính sách tiền tệ với chính sách tài khóa và các chính sách vĩ mô khác, cùng sự phát triển hài hòa, cân đối giữa khu vực ngân hàng, chứng khoán và bảo hiểm. Hoàn thiện thể chế trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng đóng vai trò quan trọng góp phần hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước thông qua vai trò của NHNN kiến tạo môi trường kinh doanh tiền tệ, ngân hàng ổn định, an toàn, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh, bảo đảm kỷ luật, kỷ cương, thượng tôn pháp luật và tôn trọng các quy luật thị trường. Nhà nước can thiệp chủ yếu bằng công cụ thị trường, hoặc thông qua nguồn lực tài chính nhà nước. Hệ thống các TCTD, gồm mọi thành phần kinh tế, được đối xử bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật, hoạt động tự chủ, tự chịu trách nhiệm.
Đối với NHNN: Chiến lược đạt ra mục tiêu hiện đại hóa NHNN Việt Nam theo hướng: Có mô hình tổ chức hợp lý và cơ chế vận hành đồng bộ, hiệu lực và hiệu quả, phù hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có đầy đủ vị thế pháp lý và trách nhiệm giải trình; thực hiện mục tiêu ưu tiên là kiểm soát lạm phát, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng bền vững; đảm bảo an toàn, lành mạnh