Thanh toán và phân chia di sản thừa kế trong pháp luật dân sự Việt Nam - 7

Sau khi người để lại di sản chết, nếu di chúc do công chứng viên lưu giữ thì người này phải công bố di chúc. Việc công bố được thực hiện bằng cách sao gửi di chúc tới tất cả những người có liên quan đến nội dung di chúc - Điều 672 BLDS.

Trong trường hợp người để lại di chúc chỉ định người công bố di chúc thì người này có nghĩa vụ công bố di chúc; nếu người để lại di chúc không chỉ định người công bố di chúc hoặc người này từ chối thì những người thừa kế thỏa thuận cử ra người công bố di chúc. Hiện nay luật pháp không còn bắt buộc các bản sao di chúc phải có công chứng, chứng thực của cơ quan có thẩm quyền nơi mở thừa kế nữa, vì thật ra qui định như vậy là không cần thiết khi đã ghi nhận “người nhận được bản sao di chúc có quyền yêu cầu đối chiếu với bản gốc của di chúc”.

Ngoài việc công bố nội dung của di chúc, trong trường hợp nội dung bản di chúc này không rõ ràng dẫn đến những cách hiểu khác nhau thì người công bố di chúc còn có quyền giải thích nội dung di chúc cùng với những người thừa kế. Việc giải thích đòi hỏi phải được căn cứ trên ý chí đích thực của người để lại di sản và mối quan hệ giữa người lập di chúc và những người thừa kế của người đó. Nếu những người này không thể thống nhất cách hiểu về nội dung bản di chúc thì sẽ coi như không có di chúc và việc phân chia di sản thừa kế lúc này sẽ áp dụng theo những qui định về thừa kế theo pháp luật. Nếu giữa họ chỉ không nhất trí về một phần của bản di chúc thì chỉ phần không thống nhất đó bị vô hiệu và áp dụng các qui định về thừa kế theo pháp luật để giải quyết. Sau khi có thông báo về thời điểm mở thừa kế hoặc di chúc được công bố, những người thừa kế có thể tiến hành họp mặt.

2.2.1.2. Họp mặt những người thừa kế

Điều 681 BLDS qui định về việc họp mặt những người thừa kế nói chung, không kể đó là những người được hưởng di sản thừa kế theo di chúc hay theo pháp luật hoặc có thể cả hai. Đây là cuộc gặp mặt để những người thừa kế có thể cùng nhau bàn bạc, thống nhất ý kiến về những vấn đề liên

quan đến việc quản lý và phân chia di sản. Mục đích của những người làm luật khi đưa ra điều luật này là nhằm tăng cường sự đoàn kết giữa những người thừa kế mà trên thực tế thường bao gồm những người có quan hệ họ hàng với nhau. Mặt khác, pháp luật cũng khuyến khích họ tự giải quyết việc phân chia bằng phương thức thỏa thuận nhằm tránh những tranh chấp không đáng có sau này.

Tuy nhiên việc có tham gia họp mặt và bàn bạc hay không là hoàn toàn tùy thuộc vào chính bản thân những người thừa kế. Pháp luật không bắt buộc họ “phải” làm như vậy mà tự họ nếu xét thấy cần thiết sẽ tổ chức buổi họp mặt này. Luật pháp chỉ yêu cầu nếu có buổi họp mặt đó diễn ra thì mọi thỏa thuận mà họ đạt được phải được ghi lại một cách đầy đủ, cụ thể trong một văn bản được gọi là biên bản họp mặt những người thừa kế. Đây sẽ là căn cứ pháp lý cho những trường hợp phát sinh tranh chấp sau này. Vì vậy, trong văn bản phải có đầy đủ chữ ký của những người thừa kế hoặc người đại diện theo pháp luật của họ, nếu có.

Tùy từng trường hợp cụ thể mà những nội dung được những người thừa kế thỏa thuận sẽ khác nhau.

Trong trường hợp người để lại di sản đã chỉ định người quản lý di sản, người phân chia di sản hoặc chưa chỉ định nhưng những người thừa kế họp mặt để chia di sản ngay thì họ chi cần thỏa thuận và ghi trong biên bản về cách thức phân chia khối di sản.

Trong trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý, người phân chia di sản và những người thừa kế chưa chia ngay di sản, để tránh sự mất mát, hư hỏng hoặc phân tán di sản, những người thừa kế có thể thỏa thuận chỉ định người phân chia di sản bên cạnh thỏa thuận về cách thức phân chia di sản. Hoặc họ có thể họp làm nhiều lần và trong mỗi lần họp sẽ chỉ thỏa thuận về một trong những nội dung này.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 88 trang tài liệu này.

Trong trường hợp đã có người quản lý di sản, người phân chia di sản thì những người thừa kế cũng có thể thỏa thuận về quyền lợi và nghĩa vụ của

những người này. Nếu không, quyền và nghĩa vụ của họ sẽ đương nhiên được xác định theo Điều 639, Điều 640 và Điều 682 BLDS.

Thanh toán và phân chia di sản thừa kế trong pháp luật dân sự Việt Nam - 7

2.2.1.3. Người phân chia di sản

Trong giai đoạn này, người quản lý di sản cũng có thể đồng thời là người phân chia di sản. Có hai trường hợp xác định là: người được chỉ định trong di chúc hoặc là người do những người thừa kế thỏa thuận cử ra, ngoài ra còn có trường hợp đặc biệt là trong trường hợp di chúc không chỉ định người quản lý di sản và người phân chia di sản, trong khi đó những người thừa kế chưa cử ra được thì người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý tài sản là di sản sẽ tiếp tục quản lý tài sản và cũng họ cũng có thể là người phân chia di sản. Dù người phân chia di sản được cử theo phương thức nào thì họ cũng không phải là chủ sở hữu khối di sản hiện đang thuộc quyền sở chung của những người đồng thừa kế, họ chỉ có quyền hành động dưới danh nghĩa và vì lợi ích của những người có quyền hưởng di sản trong các công việc liên quan đến di sản.

Trong trường hợp trong di chúc hoặc trong thỏa thuận của những người thừa kế không đề cập đến quyền và nghĩa vụ của người phân chia di sản thì theo Điều 639- khoản 2 BLDS năm 2005: "Người phân chia di sản phải chia di sản theo đúng di chúc hoặc đúng thoả thuận của những người thừa kế theo pháp luật." Ngoài những nghĩa vụ trên, người phân chia di sản có quyền được hưởng thù lao, nếu người để lại di sản cho phép trong di chúc hoặc những người thừa kế có thoả thuận. Trong thực tế thì thường người để lại di sản sẽ chỉ định một người thực hiện đồng thời hai công việc là quản lý và phân chia di sản (tuy nhiên, cũng không loại trừ trường hợp khi lập di chúc người này chỉ định hai người khác nhau thực hiện những việc đó). Người lập di chúc có thể chỉ định bất kỳ ai là người quản lý hay phân chia di sản, cũng như vậy, những người thừa kế có thế thỏa thuận cử bất kỳ ai để thực hiện công việc này đó có thể là một người thừa kế hoặc cũng có thể là một người khác.

Thông thường, nếu người phân chia di sản là một trong những người thừa kế thì vấn đề thù lao sẽ không được đặt ra.

Như vậy là sau khi những người thừa kế họp mặt thỏa thuận về những vấn đề liên quan đến di sản thừa kế, người phân chia di sản thừa kế thì di sản sẽ được chia theo đúng những thỏa thuận đó.

2.2.2.Phân chia di sản theo di chúc

2.2.2.1. Các trường hợp phân chia di sản theo di chúc:

a- Di sản được chia đều hay chia theo thỏa thuận của những người thừa kế Đây là trường hợp người lập di chúc không xác định rõ phần di sản mà

từng người thừa kế được hưởng. Vì vậy, nếu trong di chúc xác định chỉ có

một người hưởng di sản thì toàn bộ di sản sẽ thuộc về người đó; nếu người để lại di sản chỉ định nhiều người thừa kế thì di sản được chia đều cho những người được chỉ định đó. Nếu những người được hưởng di sản có thỏa thuận khác thì sẽ áp dụng chia theo thỏa thuận đó. Lưu ý là thỏa thuận này phải được lập thành văn bản và có đủ chữ ký của những người thừa kế hoặc người đại diện theo pháp luật của họ nếu có.

b - Di sản được chia theo tỷ lệ

Cách chia này được áp dụng trong trường hợp người để lại di sản đã nói rõ trong di chúc về những người hưởng thừa kế và tỷ lệ (như 1/2;1/3;/1/4...) mà mỗi người thừa kế đó được hưởng trên tổng giá trị khối di sản. Khi đó di sản sẽ được chia cho những người thừa kế theo tỷ lệ nói trên đối với giá trị khối di sản còn lại tại thời điểm phân chia. Nếu có phần di sản không còn vào thời điểm phân chia đó do lý do một trong thừa kế đã sử dụng hết hoặc đã định đoạt thì vẫn tính vào tổng giá trị khối di sản vào thời điểm phân chia. Người thừa kế nào đã sử dụng, định đoạt phần tài sản này sẽ bị khấu trừ vào khối di sản được nhận.

c - Chia di sản bằng hiện vật

Nếu những người thừa kế không có thỏa thuận gì khác thì trong trường hợp người để lại di sản đã xác định rõ tài sản mà mỗi người thừa kế xác định

được nhận thì khi chia thừa kế sẽ phải giao những hiện vật đó cho từng người thừa kế.

Người thừa kế nhận vật theo tình trạng của vật tại thời điểm phân chia. Điều đó cũng có nghĩa là họ sẽ được hưởng lợi đồng thời gánh chịu những rủi ro liên quan đền đồ vật mà mình được nhận, bao gồm:

- Được hưởng hoa lợi, lợi tức thu được từ vật;

- Phải chịu phần giá trị giảm sút của vật vì những lý do khách quan;

- Phải chịu thiệt thòi nếu vật bị tiêu hủy một cách tự nhiên;

- Có quyền yêu cầu bồi thường nếu người khác có lỗi dẫn tới tiêu hủy hay hư hỏng vật.

2.2.2.2 .Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc:

Điều 669 BLDS qui định: “ Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó, trừ khi họ là những người từ chối nhận di sản theo qui định tại Điều 642 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo qui định tại khoản 1 Điều 643 cuả Bộ luật này:

- Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;

- Con đã thành niên mà không có khả năng lao động”.

Dựa trên căn bản đạo đức, pháp luật qui định hạn chế quyền tự định đoạt tài sản của người lập di chúc nhằm để bảo vệ quyền lợi thiết thực cho một số người thừa kế theo pháp luật. Tham khảo BLDS của một số nước, chúng ta thấy cũng với mục đích cho một số người thừa kế được hưởng một phần tài sản nhất định, BLDS Cộng hoà Pháp đã định ra vấn đề lưu sản. Theo qui định tại các Điều 913, Điều 914, Điều 915, Điều 916 BLDS Pháp thì lưu sản là một phần tài sản trong khối di sản mà pháp luật dành cho một số người thừa kế. Vì vậy, với phần đó người lập di chúc không có quyền định đoạt.

Theo BLDS Việt Nam, những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc có quyền từ chối nhận phần thừa kế theo di chúc để nhận di sản theo pháp luật và như vậy với phần di sản nhận được họ cũng phải có nghĩa vụ thanh toán nợ di sản như những người thừa kế khác trong phạm vi 2/3 suất thừa kế của mình. Tuy nhiên, tại Điều 675 qui định những trường hợp thừa kế theo pháp luật thì những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc không được đề cập đến. Do vậy, nên bổ sung họ vào Điều 675 mới đầy đủ.

Tình huống đặt ra để giải quyết việc chia cho những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc được hưởng bằng 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật đối với toàn bộ khối di sản như sau:

- Tất cả những người thừa kế được chỉ định trong di chúc cùng thoả thuận không chia theo di chúc mà chia theo pháp luật nếu di chúc không có di tặng: Nếu đạt được sự thoả thuận này, thì quyền và lợi ích của những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc được đảm bảo. Tuy họ chỉ có thể được nhận bằng 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật nhưng nếu cùng chia bằng hiện vật thì họ cũng là người đồng sở hữu như những người thừa kế khác.

- Phần di sản không được định đoạt trong Di chúc: Đây là một trong những căn cứ để phân chia phần di sản còn lại theo pháp luật. Tuy nhiên, nếu trong phần di sản chuyển giao theo pháp luật mà phần của người thừa kế không phụ thuộc vào di chúc được hưởng ít hơn 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật thì người này có quyền đòi phần chênh lệch bằng hiện vật hoặc bằng tiền phụ thuộc vào quyết định của những người thừa kế theo di chúc. Nếu phần di sản chia theo pháp luật này không ít hơn 2/3 suất của một người thừa kế thì họ trở thành người có quyền hưởng di sản theo pháp luật như trường hợp ban đầu.

- Di chúc có di tặng: Thường thì người lập di chúc chỉ rõ tài sản được di tặng là gì một vật đặc định, vật cùng loại hay đúng hơn thường là một số tiền chứ ít khi nói chung chung là bao nhiêu phần trong khối tài sản sẽ để lại làm

di tặng. Do vậy, việc xác định phần của người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc cũng có thể yêu cầu người được di tặng cắt giảm một phần di tặng và phải được họ đồng ý.

2.3. Phân chia di sản theo pháp luật

Điều 675 qui định những trường hợp thừa kế theo pháp luật:


“1. Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong những trường hợp sau đây:

a) Không có di chúc;

b) Di chúc không hợp pháp;

c) Những người thừa kế theo di chúc đều chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; ...

d) Những người được chỉ định là người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối quyền nhận di sản.

1. Thừa kế theo pháp luật cúng được áp dụng đối với phần di sản sau đây: a)Phần di sản không được định đoạt trong di chúc;

b)Phần di sản có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu lực

pháp luật;

c) Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ không có quyền hưởng di sản, từ chối quyền nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng với người lập di chúc, liên quan đến cơ quan, tổ chức dược hưởng di sản theo di chúc nhưng không còn vào thời điểm mở thừa kế.

Di sản có thể được chia theo hiện vật cho những người thừa kế nếu giữa họ có thỏa thuận. Và trong trường hợp giữa họ có thỏa thuận thì mỗi người thừa kế có thể nhận hiện vật có giá trị chênh lệch khác nhau mà không phải thanh toán phần chênh lệch đó. Nếu không có được sự thỏa thuận khác thì kể cả trường hợp chia khối di sản theo hiện vật thì cũng phải là chia đều cho những người thừa kế. Nếu hiện vật bao gồm nhiều thứ có giá trị chênh lệch khác nhau thì trước khi chia phải xác định giá trị tài sản cụ thể đối với từng hiện vật. Người thừa kế nào nhận phần hiện vật có giá trị lớn hơn sẽ phải thanh toán lại phần chênh lệch so với trị giá suất thừa kế mà mình được hưởng. Người nhận vật có giá trị nhỏ hơn sẽ được hưởng thêm phần chênh

lệch. Ví dụ: Di sản của ông A gồm có một căn nhà trị giá 600 triệu đồng và một mảnh đất trị giá 360 triệu đồng. Ông có ba người con là B, C, D, cha mẹ và vợ ông đều đã chết trước ông. Như vậy hàng thừa kế thứ nhất của ông A trong trường hợp này chỉ có ba người con. Mỗi suất thừa kế sẽ là (600 + 360)triệu : 3 = 320 triệu. B, C và D thống nhất thỏa thuận là B sẽ lấy nhà, C sẽ lấy mảnh đất và mỗi người sẽ thanh toán cho D phần tiền tương ứng là: B trả 600 triệu – 320 triệu = 280 triệu, C trả 360 triệu – 320 triệu = 40 triệu. D sẽ nhận só tiền là 320 triệu đồng.

Còn nếu những người thừa kế không thể thỏa thuận được về việc chia hiện vật và thanh toán những phần chênh lệch nếu có thì hiện vật sẽ được bán để phân chia bằng tiền.

2.3.1. Người thừa kế theo hàng thừa kế

Khác với thừa kế theo di chúc, trong đó người để lại di sản có thể chỉ định bất kỳ ai làm người hưởng tài sản của mình, đối với thừa kế theo pháp luật chỉ có những người xác định theo các qui định của pháp luật mới được hưởng di sản của người chết. Theo Điều 676 BLDS, những người thừa kế này được chia thành ba hàng như sau:

Hàng thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

Hàng thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

Hàng thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại, của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

Di sản được chia đều nhau cho những người cùng hàng thừa kế. Vì vậy, nếu có người thừa kế cùng hàng đã thành thai nhưng chưa sinh ra vào thời điểm mở thừa kế thì phải dành lại một phần bằng phần của người thừa kế

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 09/11/2023