2.1. THANH TOÁN DI SẢN
Việc giải quyết các quyền, lợi ích, nghĩa vụ, chi phí phát sinh cho các khoản sau khi một người chết phải theo nguyên tắc: chỉ dựa trên khối di sản mà người chết đó để lại nếu di sản chưa chia, nếu di sản đã được phân chia người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã nhận, tuy nhiên có thể có thoả thuận về việc nhận thực hiện nghĩa vụ vượt quá số tài sản có của di sản hoặc phần di sản đã được nhận - Điều 637 BLDS năm 2005.
2.1.1. Trách nhiệm thanh toán
2.1.1.1. Thực hiện việc thanh toán khi di sản chưa được phân chia a - Nghĩa vụ của những người có quyền thừa kế:
Điều 636 BLDS năm 2005 đã qui định: “Kể từ thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại”. Theo qui định trên và theo qui định tại Điều 637 thì những người thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại. Nghĩa vụ này là bắt buộc đối với bất cứ người hưởng thừa kế nào dù đó là cá nhân, pháp nhân hay Nhà nước. Thậm chí bao gồm cả những người được giao quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng và người nhận tài sản di tặng trong trường hợp toàn bộ khối di sản thừa kế không đủ để thanh toán nghĩa vụ của người này (Điều 670- khoản 2 và Điều 671- khoản 2). Tuy nhiên, qui định của BLDS 2005 cũng đã khẳng định rất rõ ràng là trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ nói trên của những người hưởng di sản thừa kế chỉ nằm trong phạm vi di sản của người chết để lại mà thôi và qui định này được áp dụng đối với mọi người thừa kế. Đây là một qui định hết sức rõ ràng so với BLDS 1995 trước kia và thực sự tiến bộ nếu chúng ta so sánh với những qui định của pháp luật trước năm 1945, ví dụ như qui định tại Điều 379 của Bộ Luật Trung Kỳ năm 1936, trong đó có sự phân biệt trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ giữa con cháu của người để lại di sản với những người thừa kế khác, và nếu là con cái được
hưởng di sản của cha mẹ “thời phải liên đới trả cho hết tất cả các khoản nợ của cha mẹ”. Những qui định như vậy là rất bất lợi cho những người hưởng thừa kế là con cháu của người chết nếu như những khoản nợ đó là quá lớn so với cả tài sản mà họ có.
b - Trách nhiệm của người được di tặng
Điều 671 BLDS- khoản 2 qui định: “ Người được di tặng không phải thực hiện nghĩa vụ tài sản đối với phần được di tặng, trừ trường hợp toàn bộ di sản không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người lập di chúc thì phần di tặng cũng được dùng để thực hiện phần nghĩa vụ còn lại của người này”. Khi nói đến nghĩa vụ thanh toán của người được di tặng trong BLDS 2005 ta cũng thấy có điểm khác biệt khi đối chiếu với qui định của BLDS Pháp, tại Điều 871 chia ra thành hai trường hợp: di tặng một phần di sản chỉ xác định giá trị và di tặng hiện vật. Người được di tặng một phần di sản thì phải cùng trả nợ với những người thừa kế theo tỷ lệ được hưởng. Còn người được di tặng một hoặc nhiều đồ vật xác định thì không phải trả nợ trừ trường hợp bất động sản di tặng được thế chấp. Trong khi đó BLDS của nước ta không chia trường hợp quy định nghĩa vụ theo tài sản di tặng mà khẳng định rằng dù tài sản di tặng là gì thì người được di tặng cũng không phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản, chỉ trừ trường hợp toàn bộ di sản không đủ để thanh toán nghĩa vụ. Thực ra qui định như vậy dường như gây thiệt thòi cho những người thừa kế của người lập di chúc nếu giả sử có một trường hợp xảy ra như sau: ông A có vợ là B, hai người con đã thành niên là C và D, khi chết đi ông để lại khối tài sản trị giá 400 triệu đồng với một bản di chúc nói rằng di sản của ông được chia làm 04 phần bằng nhau, 1/4 trong đó tặng cho ông F là bạn thân của A. Giả thiết rằng di chúc đó đáp ứng được những điều kiện về chủ thể để hợp pháp, như vậy nội dung cũng hợp pháp vì theo di chúc đó, phần bà B được hưởng là 100 triệu đồng, lớn hơn suất thừa kế không phụ thuộc nội dung di chúc là 2/3 * (400 triệu : 3) = 89,33 triệu đồng. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu tổng số nghĩa vụ phải thanh toán sau khi ông A chết là 300 triệu? Nếu cứ căn
cứ theo Điều 671 thì ông F sẽ không có nghĩa vụ gì trong việc thực hiện các nghĩa vụ vì số tiền còn lại sau khi di tặng vẫn đủ để thực hiện toàn bộ những nghĩa vụ nói trên. Và như thế, sau khi thực hiện thanh toán hết các nghĩa vụ, những người thừa kế chính thức của ông A sẽ không còn được hưởng một chút gì. Liệu như vậy có đảm bảo được nguyên tắc của pháp luật về thừa kế là củng cố, giữ vững tình thương yêu và đoàn kết trong gia đình hay không?
Thực tế ở nước ta, khi nói đến di tặng người ta thường chỉ hình dung ra việc tặng cho một hoặc một vài tài sản xác định đã được nêu trong di chúc. Di tặng chỉ có ý nghĩa như là một phần tài sản mà người lập di chúc tặng cho một người khác với một ý nghĩa kỷ niệm, với ý nghĩa như vậy thì nó sẽ chỉ là một phần nhỏ trong khối di sản của người chết và không ảnh hưởng đến những người thừa kế. Vì vậy có thể nói rằng không phải qui định của pháp luật Việt Nam khác so với BLDS Pháp, mà chỉ là thiếu sót, trong khi qui định về vấn đề này những nhà lập pháp đã chưa dự phòng được những trường hợp có thể xảy ra.
Có thể bạn quan tâm!
- Thanh toán và phân chia di sản thừa kế trong pháp luật dân sự Việt Nam - 2
- Thanh toán và phân chia di sản thừa kế trong pháp luật dân sự Việt Nam - 3
- Trách Nhiệm Đối Với Nghĩa Vụ Thanh Toán Nợ Di Sản
- Nội Dung Việc Phân Chia Di Sản Thừa Kế
- Thanh toán và phân chia di sản thừa kế trong pháp luật dân sự Việt Nam - 7
- Tình Hình Giải Quyết Các Thanh Chấp Về Thừa Kế Tại Tòa Án Trong Những Năm Qua
Xem toàn bộ 88 trang tài liệu này.
c - Trách nhiệm của người quản lý di sản:
Kể từ thời điểm mở thừa kế, thông thường ít khi di sản được chuyển ngay cho những người thừa kế hoặc được phân chia ngay. Di sản thường trải qua một thời kỳ dài hay ngắn ở tình trạng chưa được chia. Trong khi đó, có thể xẩy ra tình trạng khối di sản không có người quản lý trông coi sẽ dẫn đến tình trạng hư hỏng, thất lạc, không lập được danh mục di sản, không thu hồi được di sản thuộc sở hữu của người chết mà người khác đang chiếm hữu và quan trọng nhất không gìn giữ được khối di sản trước các chủ nợ. Điều 638 BLDS năm 2005 qui định về người quản lý di sản:
“1. Người quản lý di sản là người được chỉ định trong di chúc hoặc do những người thừa kế thoả thuận cử ra.
2. Trong trường hợp di chúc không chỉ định người quản lý di sản và những người thừa kế chưa cử được người quản lý di sản thì người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản tiếp tục quản lý di sản đó cho đến khi những người thừa kế cử được người quản lý di sản.”
Như vậy, kể từ thời điểm mở thừa kế, người quản lý di sản đóng vai trò rất quan trọng cho đến khi di sản được đem chia. Vì lúc này, việc khó nhất và phức tạp nhất là giải quyết các nghĩa vụ về tài sản người đã chết trong khối di sản để lại. Hầu hết các chủ nợ chỉ quan tâm và làm việc với người quản lý di sản, trong khi đó những người được hưởng di sản thừa kế thì không xuất hiện. Trách nhiệm đứng ra giải quyết của người quản lý di sản là rất lớn, do vậy pháp luật qui định rất cụ thể quyền, lợi ích và nghĩa vụ của người quản lý di sản tại các Điều 638, Điều 639, Điều 640 BLDS. Tại khoản 2 - Điều 637 qui định: “ Trong trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại được người quản lý di sản thực hiện theo thoả thuận của những người thừa kế”. Như vậy có thể coi người quản lý di sản là con nợ ra mặt còn những người thừa kế là con nợ đích thực nhưng không ra mặt, họ phải gánh vác một công việc rất phức tạp nhưng chỉ dựa trên nguyên tắc “Tất cả các hành vi mà người quản lý di sản làm chỉ trong khuôn khổ thi hành các nghĩa vụ của một người được uỷ quyền không ràng buộc các tài sản riêng của người này... và chỉ chừng nào di sản còn được đặt dưới thẩm quyền của người quản lý và không bị trộn lẫn vào sản nghiệp của người này, thì việc trả nợ di sản được đảm bảo chỉ bằng các tài sản có thuộc di sản” - theo TS Nguyễn Ngọc Điện. Tuy nhiên, trong các điều khoản của BLDS về thừa kế không có một điều nào đề cập đến điều kiện để một người có thể trở thành người quản lý di sản thừa kế. Nếu áp dụng qui định của phần chung BLDS thì để một người có thể tham gia vào những giao dịch khi đại diện cho những người thừa kế trong thời gian di sản chưa được phân chia thì đó phải là người có đầy đủ năng lực hành vi pháp luật dân sự. Nhưng, như vậy đã đủ chưa? Nếu so sánh với qui định tại Điều 1718 của BLDS Thái Lan thì ngoài việc khẳng định điều kiện đầy đủ năng lực hành vi dân sự, pháp luật nước này còn quy định người đó phải là người không bị Tòa án tuyên bố phá sản. Qui định này sẽ đảm bảo một cách chắc chắn hơn khả năng bảo toàn khối di sản mà người chết để lại khi trao nó vào tay của người quản lý. Nên chăng pháp luật
Việt Nam cũng cần xây dựng những điều kiện như vậy!? Người quản lý di sản sẽ có những quyền và nghĩa vụ nhất định theo di chúc hay theo thỏa thuận với
những người thừa kế hoặc theo qui định của pháp luật.
Các đồng thừa kế có thể thoả thuận thanh toán nghĩa vụ tài sản kể cả khi có di chúc hay không. Việc thoả thuận có thể xẩy ra những tình huống sau:
- Những người thừa kế thoả thuận để tự cho các chủ nợ tuỳ ý định đoạt khối di sản: Trường hợp này xẩy ra khi khả năng thanh toán của di sản không chắc chắn. Lúc này người quản lý di sản sẽ phải đứng ra thu xếp và tổ chức việc thanh toán trong phạm vi khối di sản, còn những người thừa kế thì không quan tâm đến nữa.
- Những người thừa kế có thể thỏa thuận thanh toán nghĩa vụ tài sản vượt quá khối di sản hiện có.
- Người quản lý di sản vì lý do nào đấy sẵn sàng nhận trách nhiệm lãnh nợ vượt quá khối di sản bằng tài sản riêng của mình. Trong trường hợp này người quản lý di sản không có quyền kiện đòi những người thừa kế thanh toán phần chênh lệch mà mình đã bỏ ra dưới bất kỳ lý do nào.
d - Trường hợp di sản không có người nhận thừa kế thuộc Nhà nước:
Theo Điều 644 BLDS : “ Trong trường hợp không có người thừa kế theo di chúc, theo pháp luật hoặc có nhưng không được quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản thì tài sản còn lại sau khi đã thực hiện nghĩa vụ về tài sản mà không có người nhận thừa kế thuộc Nhà nước”. Theo Điều luật trên, ta có thể hiểu như sau: Đến thời điểm mở thừa kế, người để lại di sản chết không để lại di chúc,
những người thuộc hàng thừa kế theo pháp luật không có, không được quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản thì di sản có thể đang trong tình trạng vô chủ không có người quản lý hoặc có người quản lý nhưng người này không biết mình phải làm gì đối với khối di sản đó. Nhà nước với tư cách là người nắm trong tay quyền lực công cộng sẽ thu nhận khối di sản đó và thực hiện nghĩa vụ như một người thừa kế cuối cùng đối với các khoản nợ của di sản. Vậy, Nhà nước có thể cử người quản lý di sản và thay mặt Nhà
nước thực hiện nghĩa vụ thanh toán nợ di sản. Sau đó, nếu vẫn không có người nhận thì di sản thuộc về Nhà nước. Nhưng để thực hiện quyền kiện đòi tài sản, quyền sở hữu hợp pháp cũng như quyền được yêu cầu bên chủ thể mang nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ để đem lại lợi ích của người mang quyền thì họ vẫn có quyền yêu cầu thanh toán từ di sản của người chết để lại. Thực hiện việc thanh toán di sản có thể do người quản lý di sản theo qui định của Điều 637 BLDS. Sau khi thanh toán các nghĩa vụ tài sản do người chết để lại, phần tài sản còn lại mới thuộc về Nhà nước theo qui định tại Điều 644 BLDS, Điều 1- khoản 1 và Điều 6- khoản 1 trong Quy chế quản lý và xử lý tài sản khi có quyết định tịch thu sung quỹ Nhà nước và được xác lập quyền sở hữu Nhà nước ban hành kèm theo Quyết định số 100/TC –QLCS ngày 23/1/1997 của Bộ trưởng Bộ Tài chính.
2.1.1.2.Thực hiện việc thanh toán khi di sản đã được phân chia
Tại Điều 637- khoản 3 BLDS năm 2005: “Trong trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã nhận, trừ trường hợp có thoả thuận khác”. Trong trường hợp này nghĩa vụ tài sản do người chết để lại thường là những khoản nợ chưa được trả hoặc chưa trả hết. Những người thừa kế khi bị kiện đòi thanh toán thì họ bắt buộc phải yêu cầu hoặc cùng thoả thuận để chia nhỏ nghĩa vụ liên quan đến cho tất cả những người thừa kế không phân biệt thừa kế theo di chúc hay theo pháp luật và cũng áp dụng cho cả di tặng nếu trong di chúc chỉ định rõ. Ví dụ, người thừa kế nhận 1/3 trong tổng giá trị di sản thì họ chỉ chịu trách nhiêm đối với 1/3 tổng số nợ di sản đó mà thôi.
2.1.2. Những người được thanh toán nghĩa vụ tài sản
Vấn đề tiếp theo cần thực hiện khi thanh toán di sản đó là xác định những người được thanh toán di sản, hay nói cách khác là những người có quyền yêu cầu thanh toán từ khối di sản của người chết để nhằm đạt được những lợi ích hợp pháp theo qui định của pháp luật. Những người này được
xác định là những người có quyền trong quan hệ pháp luật mà khi còn sống người để lại di sản đã tham gia với tư cách là người có nghĩa vụ. Những nghĩa vụ đó có thể đang được thực hiện hoặc chưa được thực hiện (trong đó chưa được thực hiện có thể hiểu là chưa kịp thực hiện hoặc chưa đến thời hạn thực hiện) thì người có nghĩa vụ chết. Trong trường hợp này, pháp luật yêu cầu những người hưởng thừa kế phải thực hiện những nghĩa vụ tài sản đó bằng chính tài sản của người chết. Tuy nhiên, cần phải nói thêm rằng vì đây là những quan hệ pháp luật dân sự phát sinh nghĩa vụ được pháp luật thừa nhận và bảo vệ nên tất cả những nghĩa vụ phát sinh từ những giao dịch dân sự bất hợp pháp thì những người thừa kế không phải thực hiện. Ngoài ra, nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho những người hưởng thừa kế thì những nghĩa vụ mà người chết đã thực hiện không phải phục vụ cho chính bản thân mình, thì pháp luật cho phép họ không phải thực hiện. Điều đó cũng có nghĩa là những người có quyền và lợi ích không được pháp luật thừa nhận và bảo vệ không có quyền yêu cầu người hưởng thừa kế thực hiện nghĩa vụ. Theo qui định của pháp luật thì những người sau có quyền được thanh toán:
- Người dùng tài sản riêng để lo việc mai táng cho người để lại di sản;
- Người được cấp dưỡng (con chưa thành niên của người chết mà người đó khi còn sống có nghĩa vụ cấp dưỡng, con đã thành niên mà không có khả năng lao động để tự nuôi sống mình, người bị người chết gây thiệt hại và người chết khi còn sống có nghĩa vụ phải cấp dưỡng theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền,…);
- Người sống nương nhờ vào người chết (ông, bà nội, ngoại của người chết mà không còn con, cháu; người chưa thành niên gọi người chết là ông, bà nội, ngoại mà không còn cha, mẹ,…);
- Người lao động chưa được trả công;
- Người bị thiệt hại do hành vi gây thiệt hại của người chết;
- Nhà nước với quyền yêu cầu người chết nộp thuế trong kinh doanh, sản xuất, thu nhập,…;
- Người bị vi phạm hợp đồng dân sự, cơ quan nhà nước yêu cầu nộp phạt do vi phạm hành chính,…;
- Các chủ nợ trong các giao dịch dân sự: mua bán, cho vay, cho thuê, cầm cố, thế chấp…;
- Người bỏ phí để bảo quản di sản;
- Các chủ thể khác có quyền đối với nghĩa vụ mà người chết phải thực hiện khi còn sống.
Về nguyên tắc, tất cả các nghĩa vụ của người chết đều phải được thanh toán nếu chủ thể có quyền yêu cầu và nghĩa vụ đó là hợp pháp. Tuy nhiên, cũng có những trường hợp người chết để lại khối di sản có giá trị nhỏ hơn tổng giá trị các nghĩa vụ tài sản mà người đó có nghĩa vụ thanh toán nếu còn sống và các khoản phí khác, trong đó có những khoản cần được đảm bảo thanh toán hơn nếu so với các khoản khác. Từ thực trạng này, những nhà lập pháp đã đưa ra biện pháp khắc phục dựa vào mức độ cần thiết của tài sản đối với người được thanh toán đồng thời với việc cân bằng lợi ích giữa các chủ thể thông qua qui định thứ tự ưu tiên thanh toán tại Điều 683 BLDS. Theo thứ tự sắp xếp các khoản được thanh toán của Điều luật này thì phải thanh toán lần lượt từng nghĩa vụ bằng tài sản của người chết, nghĩa vụ tiếp theo sau chỉ được thanh toán khi những nghĩa vụ trước nó đã được thanh toán xong hoặc thanh toán theo yêu cầu của người có quyền. Nếu thanh toán đến một nghĩa vụ theo thứ tự ưu tiên thanh toán mà di sản đã hết thì việc thanh toán sẽ dừng lại ở đó, và những người có quyền của những nghĩa vụ tiếp ngay sau đó sẽ không được quyền yêu cầu thanh toán nữa.
Tuy nhiên, pháp luật không cho phép những người có quyền đòi những người thừa kế phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại khởi kiện vô hạn. Điều 645 BLDS năm 2005 đã bổ sung thời hiệu khởi kiện của những người này là ba năm kể từ thời điểm mở thừa kế. Nếu sau ba năm người có quyền không yêu cầu thì khi đó họ bị mất quyền lợi của mình. Việc qui định như vậy nhằm đảm bảo được tính ổn định trong giao lưu dân sự, vì