Mục Tiêu Của Kiểm Toán Hoạt Động


toán hoạt động, các kiểm toán viên cũng phải đảm bảo được tính độc lập như các loại hình kiểm toán khác…Tuy nhiên kiểm toán hoạt động là loại hình kiểm toán được áp dụng cho tất cả mọi hoạt động liên quan đến đời sống kinh tế - xã hội, như: khoa học công nghệ, giáo dục, y tế, phát thanh truyền hình… Nếu thực hiện trong các doanh nghiệp, thì kiểm toán hoạt động có thể được áp dụng cho tất cả các hoạt động của doanh nghiệp, như: sản xuất, cung ứng, dịch vụ, bán hàng, nghiên cứu, nhân sự, kế toán, máy tính…;

Thứ hai, Thường tập trung vào những hoạt động cụ thể đang có vấn đề nổi cộm như hệ thống quản lý hoạt động, hệ thống kiểm soát nội bộ ảnh hưởng đến các chương trình, các hoạt động có liên quan đến nhân sự, tài chính của đơn vị;

Thứ ba, Tập trung đánh giá tính kinh tế, tính hiệu quả và tính hiệu lực trong các hoạt động của đơn vị. Theo đó công việc chủ yếu của kiểm toán hoạt động là phải thu thập và đánh giá những bằng chứng đã thu thập được để đo lường và đánh giá tính kinh tế, tính hiệu quả và tính hiệu lực của các hoạt động được kiểm toán;

Thứ tư, Tạo ra cơ hội để cải tiến các hệ thống quản lý và hoạt động của đơn vị, bởi mục đích chính của kiểm toán hoạt động là giúp nhà các nhà lãnh đạo của đơn vị được kiểm toán quản lý theo hướng tăng cường tính kinh tế, tính hiệu quả và tính hiệu lực của các hệ thống quản lý và thường chú trọng đến tương lai của đối tượng được kiểm toán.

Sáu là, Về thời điểm thực hiện: Kiểm toán hoạt động được thực hiện cả khi lập dự toán hoặc kế hoạch các dự án mới kể cả khi điều chỉnh các dự án đang tiến hành; cả khi đang thực hiện các dự án (kiểm tra kết quả song hành) và cả sau khi kết thúc dự án (kiểm tra kết quả cuối cùng).

Bảy là, Định hướng kiểm toán trong mỗi giai đoạn kiểm toán đều có tính đặc thù để đáp ứng các mục tiêu kiểm toán. Chẳng hạn:

Trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, việc đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ thường hướng vào các phương pháp hay trình tự tiên tiến trong tổ chức


hoạt động của đơn vị được kiểm toán, để xây dựng hệ thống tiêu chuẩn đo lường cùng tiêu chí đánh giá hoạt động và chương trình kiểm toán. Trong giai đoạn này công việc quan trọng nhất là lựa chọn vấn đề kiểm toán. Lựa chọn vấn đề kiểm toán là việc cần nhận ra và cố gắng tìm hiểu và nắm rõ các đặc điểm của vấn đề lựa chọn kiểm toán thông qua một vài thông số của tổ chức đó như: Sự thiếu sót trong chất lượng dịch vụ (mất thiều thời gian, ùn tắc công việc); Có nhiều phàn nàn, khiếu kiện; Tăng chi phí do sử dụng nhiều nguồn lực…;

Trong giai đoạn thực hành kiểm toán, các thủ tục kiểm toán được sử dụng để đo lường, đánh giá các thành tích đạt được của đối tượng kiểm toán. Trong giai đoạn này công việc quan trọng nhất là việc thu thập và phân tích dữ liệu; việc thu thập số liệu nên sử dụng phương pháp hỏi trực tiếp (như phỏng vấn trực tiếp, phỏng vấn qua điện thoại, bảng câu hỏi), quan sát và kiểm tra trực tiếp tại các cơ quan, đơn vị hoặc kiểm tra số liệu, tài liệu và chứng từ…; việc phân tích dữ liệu cũng thường được chia thành 03 loại sau: phân tích các số liệu thống kê; phân tích chất lượng các cuộc phỏng vấn và kết hợp phân tích về lượng và về chất trên cơ sở tất cả các dữ liệu đã thu thập được.

Trong giai đoạn kết thúc kiểm toán, các thủ tục soát xét và lập báo cáo kiểm toán được thực hiện linh hoạt hơn; bố cục và nội dung ít được chuẩn hoá, được trình bày tuỳ thuộc vào đặc điểm của mỗi cuộc kiểm toán và được phát hành trên cơ sở riêng; tiêu chí đánh giá cuộc kiểm toán mang tính chủ quan nhiều hơn và mỗi cuộc kiểm toán đều có tiêu chí đánh giá riêng, song phải đáp ứng được các tiêu chuẩn về báo cáo mà INTOSAI đã đưa ra như sau:

Vào cuối cuộc kiểm toán, các kiểm toán viên cần chuẩn bị một bản trình bày quan điểm hay báo cáo nếu điều đó là thích hợp, sắp xếp những gì phát hiện được vào một dạng thích hợp; nội dung của nó cần dễ hiểu, tránh sự mơ hồ hoặc nước đôi, chỉ bao gồm các thông tin được hỗ trợ bằng các chứng cứ kiểm toán thích hợp và có liên quan và phải độc lập, khách quan, công bằng và mang tính xây dựng[23,97].


Tám là, Người thực hiện kiểm toán cũng có tính đa đạng, kết hợp song đều có yêu cầu về trình độ cụ thể: Kiểm toán viên cần có kiến thức phân tích tư liệu về tài chính - kế toán; chuyên viên các ngành nghề khác ngoài tài chính - kế toán (như kiến trúc sư, nhà xã hội học, các nhà khoa học trong các lĩnh vực khác, kỹ sư xây dựng, kỹ sư nông, lâm nghiệp…), cần có kiến thức về lãnh đạo hoặc khả năng quan sát và có kiến thức bách khoa rộng lớn, muốn biết, muốn thấy… Tất cả những người tham gia kiểm toán đều đã được luyện tập hay tập huấn về kiểm toán hoạt động, để có năng lực phân tích vấn đề; có sự cố gắng, có tính tự tin; có tính kiên trì, kiềm chế; có ý chí sáng tạo, xây dựng; có năng lực phối hợp với người khác…

Với các đặc điểm có tính chất riêng biệt như trên của kiểm toán hoạt động, đòi hỏi Cơ quan Kiểm toán Nhà nước trong quá trình tổ chức kiểm toán hoạt động đòi hỏi phải tìm cách thực hiện được một hoặc một số yêu cầu sau đây:

Một là: Phục vụ cơ quan lập pháp bằng các cuộc kiểm toán độc lập về tính kinh tế, tính hiệu quả và tính hiệu lực trong việc thực hiện chính sách hoặc chương trình của nhà nước;

Hai là: Cung cấp cho cơ quan lập pháp những bản phân tích độc lập, tức thời về hiệu lực và độ tin cậy của các hệ thống đánh giá kết quả hoạt động hoặc về các bản đánh giá hoặc tự đánh giá do các cơ quan thừa hành công bố; Ba là: Cung cấp cho cơ quan lập pháp những bản phân tích độc lập về những vấn đề liên quan đến tính kinh tế, tính hiệu quả và tính hiệu lực trong

các hoạt động nhà nước và qua đó góp phần cải tiến những hoạt động đó;

Bốn là: Đưa ra cho cơ quan lập pháp những đánh giá độc lập về các tác động theo chủ ý, trực tiếp hoặc gián tiếp về các chương trình của nhà nước hoặc của cơ quan và báo cáo về việc có đạt được mục tiêu đề ra hay không và đạt được ở mức nào hoặc tại sao không đạt được;


Năm là: Mục tiêu của kiểm toán hoạt động ở nhiều nước, do cơ quan lập pháp hoặc bản thân cơ quan kiểm toán nhà nước đặt ra là đánh giá và cải tiến phương thức hoạt động các chương trình của nhà nước, của cơ quan nhà nước trung ương và các cơ quan trực thuộc. Ở nhiều nước, việc đưa ra các kiến nghị kiểm toán được đặt lên hàng đầu. Trong khi đó ở một số nước khác do điều kiện pháp lý và truyền thống lịch sử, kiểm toán nhà nước không đưa ra bất cứ kiến nghị nào.

1.1.3.2. Mối liên hệ giữa kiểm toán hoạt động với kiểm toán tài chính và kiểm toán tuân thủ

Kiểm toán hoạt động với kiểm toán tài chính và kiểm toán tuân thủ có rất nhiều điểm tương đồng về chức năng chung (xác minh và bày tỏ ý kiến), về đối tượng chung (hoạt động cần được kiểm toán) và về phương pháp chung (chứng từ và ngoài chứng từ). Từ đó kiểm toán viên của ba loại hình kiểm toán này cũng cùng thực hiện nhiệm vụ đánh giá và đưa ra ý kiến về hoạt động của đơn vị được kiểm toán. Theo đó, họ sử dụng các phương pháp giống nhau để thu thập dữ liệu. Tuy nhiên, mục tiêu, đối tượng của kiểm toán hoạt động thường tập trung vào tính kinh tế, tính hiệu quả và tính hiệu lực; còn mục tiêu, đối tượng của kiểm toán báo cáo tài chính và kiểm toán tuân thủ thường tập trung vào độ tin cậy và mức độ hợp pháp, hợp lý của các tài liệu trên báo cáo kế toán… Do vậy cách thức tổ chức và thực hiện của mỗi loại hình kiểm toán cũng đều có những nét đặc thù. Tại một số quốc gia như Đức, Hà Lan, Mỹ, cơ quan kiểm toán tổ chức kiểm toán hoạt động tại riêng một bộ phận (một tổ chức). Tại một số nước khác, kiểm toán hoạt động được hợp nhất với kiểm toán tài chính. Sự kết hợp này được nhắc đến và gọi tên là kiểm toán liên kết. Đây là cách tiếp cận hợp lý khi các nguồn lực kiểm toán có hạn. Khái quát những nét đặc thù nêu tại Bảng 1.1 sau.


Bảng 1.1. Sự khác biệt cơ bản giữa kiểm toán hoạt động với kiểm toán báo cáo tài chính và kiểm toán tuân thủ

TT

Tiêu chí

Kiểm toán hoạt động

Kiểm toán báo cáo tài chính

Kiểm toán tuân thủ

1

Mục tiêu kiểm toán

Đánh giá tính kinh tế, hiệu quả trong hoạt động và hiệu lực quản lý của đơn vị được

kiểm toán

Đánh giá độ tin cậy, mức hợp lý về báo cáo kế toán của đơn vị được kiểm toán

Đánh giá việc tuân thủ các văn bản quy phạm

pháp luật…

2

Đối tượng kiểm toán

Các hoạt động cụ thể cần được kiểm toán (được chọn trọng điểm)

Báo cáo tài chính và hệ thống sổ kế toán

Tương tự như kiểm toán báo cáo tài chính

3

Phương pháp, kỹ thuật cụ thể

Được áp dụng khác nhau giữa các dự án, chương trình, hoạt động song quan tâm nhiều tới tần suất xuất hiện để đánh giá thành tích của đơn vị được

kiểm toán

Ít nhiều đã được chuẩn hoá và hình thành cẩm nang kiểm toán qua các thủ tục kiểm tra chỉ tiêu, thủ tục phân tích và thủ tục kiểm soát…

Tương tự như kiểm toán báo cáo tài chính

4

Thời điểm và loại hình kiểm toán

Cùng thời điểm lập kế hoạch (dự toán), thực hiện và kết thúc chương trình, dự án (qua kiểm toán trước, trong và sau hoạt động

Kiểm toán định kỳ khi kết thúc niên độ kế toán (kiểm toán sau)

Tương tự như kiểm toán báo cáo tài chính (chỉ kiểm toán sau)

5

Cơ sở đánh giá

Các tiêu chuẩn đo lường và tiêu chí đánh giá được xây dựng riêng cho từng cuộc kiểm toán

Các tiêu chuẩn đo lường và tiêu chí đã chuẩn hoá thành chuẩn mực và được ứng dụng trong tất cả

các cuộc kiểm toán

Các tiêu

chuẩn đo lường và tiêu chí đều căn cứ theo luật…

6

Người thực hiện

Cả kiểm toán viên và các chuyên gia kỹ thuật hoặc chuyên gia quản lý có hiểu biết về kiểm

toán hoạt động

Các kiểm toán viên có trình độ tương xứng với công việc được giao trong kiểm

toán báo cáo tài chính

Tương tự như kiểm toán báo cáo tài chính

7

Báo cáo

Khác nhau về bố cục và nội dung; Được phát hành trên cơ sở riêng

Ít nhiều đã được chuẩn hoá; được phát hành trên cơ sở thường xuyên

Tương tự như kiểm toán báo cáo tài chính

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 208 trang tài liệu này.

Tăng cường vai trò của kiểm toán hoạt động ở Việt Nam do kiểm toán nhà nước thực hiện - 5


1.1.4. Mục tiêu của kiểm toán hoạt động

1.1.4.1. Đánh giá tính kinh tế (tính tiết kiệm)

Trong kinh tế tư nhân, hoạt động sản xuất kinh doanh được coi là kinh tế (hoặc tiết kiệm) nếu chi phí để sản xuất ra một sản phẩm nhất định ngày càng được giảm đi, qua đó lợi nhuận thu được thông qua việc sản xuất và bán các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ ngày càng tăng lên. Còn hoạt động quản lý nhà nước và kết quả đạt được thông qua những hoạt động này không được chào bán trên thị trường, nên không có giá cả thị trường. Nhưng tính kinh tế trong lĩnh vực công nhất thiết cũng cần được xem xét trên nhiều góc độ, bởi ngân sách nhà nước chủ yếu do nhân dân đóng góp từ các khoản thuế và nhà nước sử dụng ngân sách với tư cách là người quản lý, khai thác ngân sách. Do đó, cơ quan quản lý nhà nước cần thực hiện các khoản chi nếu chúng cần thiết để hoàn thành những nhiệm vụ của nhà nước. Vì nhu cầu tiêu dùng của nhà nước và người dân là vô hạn nhưng kinh phí từ ngân sách lại có hạn nên phải sử dụng ngân sách nhà nước sao cho kinh tế nhất.

Theo các chuẩn mực kiểm toán thì tính kinh tế có thể được hiểu là việc giảm thiểu chi phí đầu vào mà vẫn đảm bảo số lượng và chất lượng đầu vào phục vụ cho hoạt động, không ảnh hưởng tới chất lượng yêu cầu. Tính kinh tế tập trung vào quá trình mua sắm nguồn lực đầu vào đúng thời gian, đúng địa điểm, đúng chất lượng, phù hợp với yêu cầu đặt ra với mức chi phí thấp nhất.

Nguyên tắc kinh tế là phải cố gắng đạt được tương quan hợp lý nhất giữa mục tiêu theo đuổi (hoàn thành nhiệm vụ của nhà nước) và kinh phí sử dụng cho việc đó (chi phí). Tính kinh tế bao hàm:

Một là, Nguyên tắc tiết kiệm – Nguyên tắc tối thiểu: Cần đạt được kết quả nhất định với lượng chi phí thấp nhất có thể được; hoặc tối thiểu lượng kinh phí sử dụng xuống mức cần thiết để hoàn thành nhiệm vụ;

Hai là, Nguyên tắc kết quả dồi dào – Nguyên tắc tối đa: Với một lượng chi phí nhất định cần đạt kết quả tốt nhất; hoặc tận dụng nguồn lực nhân sự và vật chất để đạt được mục tiêu ở mức cao nhất.


Hiệu quả và tính kinh tế trong hoạt động quản lý của cơ quan quản lý liên quan đến việc đạt được mục tiêu cũng như mối tương quan giữa tác động mong muốn đạt được và tác động đạt được trên thực tế của một hoạt động.

Như vậy, kiểm toán tính kinh tế đòi hỏi phải có một đánh giá tương quan giữa kết quả đạt được với phương tiện/kinh phí đem sử dụng. Kiểm toán tính tiết kiệm cần nhấn mạnh các yếu tố đầu vào, cụ thể, phải xem xét khả năng chi tiêu giảm trong khi vẫn đạt được kết quả hay lợi ích như đã định?

Kiểm toán tính kinh tế có thể giúp trả lời các câu hỏi sau:

Thứ nhất, Các phương tiện được lựa chọn hoặc những thiết bị được lấy về (đầu vào) có đáp ứng được yêu cầu sử dụng tiết kiệm nhất công quỹ không?

Thứ hai, Nguồn lực con người, tài chính hoặc vật chất đã được sử dụng một cách tiết kiệm hay chưa?

Thứ ba, Công tác quản lý có phù hợp với những nguyên tắc quản lý đã định và những chính sách quản lý đó có tốt hay không?

Cho dù khái niệm tính tiết kiệm đã được định nghĩa một cách rõ ràng thì việc thực hiện kiểm toán tính tiết kiệm vẫn không hề đơn giản. Một nhiệm vụ khó khăn đối với kiểm toán viên thường là việc đánh giá và lựa chọn yếu tố đầu vào theo yêu cầu sử dụng kinh phí công một cách tiết kiệm nhất, chất lượng và số lượng của các yếu tố đầu vào đã tối ưu và được phối hợp với nhau một cách hợp lý chưa. Thực tế cho thấy để có thể đưa ra được những kiến nghị để giảm chi phí mà không làm ảnh hưởng tới chất lượng và quy mô của các dịch vụ là vấn đề rất khó khăn.

1.1.4.2. Đánh giá tính hiệu quả

Tính hiệu quả được hiểu là mối quan hệ giữa đầu ra (sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ hoặc các kết quả khác) với nguồn lực đầu vào để tạo ra chúng. Tính hiệu quả đạt được khi với cùng một đơn vị nguồn lực đầu vào tạo ra được đầu ra nhiều nhất hoặc với đơn vị giảm thiểu nguồn lực đầu vào cung cấp để tạo ra các đầu ra với số lượng và chất lượng cố định.


Để xác định tính hiệu quả, có thể so sánh giữa các hoạt động tương đồng, hoặc so sánh kỳ hiện tại với các kỳ trước hoặc với những tiêu chí đánh giá đã được đơn vị kiểm toán chấp nhận. Tính hiệu quả bao gồm:

Một là, Hiệu quả sử dụng các nguồn lực: tài chính, nhân lực...; Hai là, Hiệu quả trong tổ chức thực hiện;

Ba là, Đảm bảo chất lượng sản phẩm, dịch vụ, thời gian và công dụng;

Bốn là, Đảm bảo tính hiệu quả về chi phí: Đây là chỉ tiêu kết hợp giữa tính hiệu quả và tính kinh tế do trên thực tế rất khó phân biệt hai khái niệm này, nhiều hoạt động có tác động đồng thời đến cả hai và khi đó người ta thường quan tâm đến việc đánh giá hiệu quả của đồng tiền mà nhà nước đã bỏ ra, ví dụ: các cải cách về đấu thầu; thắt chặt quy định về tuyển dụng…

Có một mối quan hệ giữa hiệu quả và tính tiết kiệm. Ở đây, vấn đề trọng tâm là sử dụng nguồn lực. Câu hỏi chính đặt ra là liệu các nguồn lực này đã được sử dụng một cách tối ưu hay một cách thoã mãn chưa hay với ít nguồn lực hơn vẫn có thể đạt được kết quả như vậy hay tương tự về mặt chất lượng và thời gian thực hiện. Chúng ta có thu được kết quả đầu ra lớn nhất - về số lượng và chất lượng – với đầu vào và các hoạt động khác không đổi? Câu hỏi liên quan đến mối quan hệ giữa chất lượng với số lượng các dịch vụ được cung cấp, các hoạt động và chi phí nguồn lực sử dụng để sản xuất ra dịch vụ nhằm đạt được kết quả.

Nhìn chung, bất cứ ý kiến nào đánh giá về tính hiệu quả cũng thường chỉ là tương đối, bởi chỉ khi một hoạt động hoặc một công việc nào đó không mang lại hiệu quả thì khi đó ta mới có những đánh giá rõ ràng. Có thể nhận thấy hiệu quả của một hoạt động hoặc một công việc nào đó bằng cách so sánh với các hoạt động hoặc công việc tương tự; với các thời kỳ khác hoặc với các tiêu chí đánh giá của cuộc kiểm toán hoạt động đã được đơn vị kiểm toán chấp nhận từ trước.

Kiểm toán tính hiệu quả bao trùm trên nhiều lĩnh vực, như:

- Hiệu quả của nguồn nhân lực, tài lực và các nguồn khác;

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 27/12/2022