2004 quy định thời hạn kháng nghị theo thủ tục tái thẩm dân sự là một năm, kể từ ngày người có thẩm quyền kháng nghị biết được căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm dân sự [36]. Quy định về kháng nghị dân sự trong vụ án hình sự cần có giải thích để hiểu thống nhất không phải chỉ để xác định thời hạn kháng nghị tái thẩm mà còn liên quan đến các quy định khác mà đầu tiên là nguyên tắc quy định tại Điều 28 BLTTHS, nguyên tắc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự.
Trên thực tế có trường hợp kháng nghị tái thẩm không ảnh hưởng đến quyền lợi của người bị kết án, không theo hướng làm xấu đi và cũng không theo hướng có lợi cho người bị kết án. Ví dụ: kháng nghị phần quyết định tịch thu tài sản sung quỹ nhà nước do đã xác định được chủ sở hữu. Trên thực tế kháng nghị tái thẩm trong trường hợp này là 5 năm sau khi bản án có HLPL [72]. Kháng nghị tái thẩm trong các trường hợp nêu trên chưa quy định trong BLTTHS.
Quy định về thời hạn kháng nghị tái thẩm của các nước là khác nhau. TTHS Cộng hoà Pháp xác định đơn yêu cầu tái thẩm không bị giới hạn về thời gian và có thể thực hiện vào bất kỳ thời điểm nào. Bởi vì trong TTHS Cộng hoà Pháp, để tái thẩm được chấp nhận, người bị kết án phải có lợi ích trong việc đưa ra yêu cầu. Quy định này giống như quy định thời hạn tái thẩm theo hướng có lợi cho người bị kết án trong BLTTHS năm 2003 của Việt Nam.
Tại Hoa Kỳ, thời hạn đưa ra yêu cầu phiên toà mới có sự phân biệt dựa trên căn cứ của yêu cầu. Theo quy định tại Điều 33 Quy định Liên bang về TTHS, thời hạn đưa ra yêu cầu của bị cáo đối với căn cứ về chứng cứ mới (tái thẩm) dài hơn rất nhiều so với các căn cứ khác. Thời hạn để bị cáo đưa ra yêu cầu mang bản chất của tái thẩm là 3 năm kể từ khi có bản án hoặc phán quyết có tội trong khi thời hạn này đối với các căn cứ khác (phần lớn mang bản chất của giám đốc thẩm) là 14 ngày. Sự khác biệt về thời hạn này được giải thích dựa vào bản chất của căn cứ. Quy định này nhằm đảm bảo có một thời gian hợp lý đủ để phát hiện thêm các chứng cứ mới. Ngoài ra, quy định này cũng phù hợp với quy định về trách nhiệm chứng minh chứng cứ mới thuộc về bị cáo [99, tr. 109].
Như vậy, quy định về thời hạn tái thẩm phụ thuộc pháp luật cho phép tái thẩm được tiến hành theo hướng nào.
3.1.2.3. Thủ tục tái thẩm tại Toà án
BLTTHS năm 2003 quy định về những người tham gia phiên toà tái thẩm, thành phần hội đồng tái thẩm, chuẩn bị phiên toà và thủ tục phiên toà tái thẩm, thời hạn tái thẩm được áp dụng tương tự như đối với thủ tục giám đốc thẩm tại các Điều 280, 281, 282 và 283. Những quy định áp dụng tương tự cho hai thủ tục có tính chất pháp lý khác nhau không phải trong trường hợp nào cũng phù hợp.
* Quy định chung về thủ tục tố tụng tại phiên toà tái thẩm
Có thể bạn quan tâm!
- Tái thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam – những vấn đề lý luận và thực tiễn - 8
- Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự Việt Nam Về Tái Thẩm
- Tái thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam – những vấn đề lý luận và thực tiễn - 10
- Thực Tiễn Thi Hành Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự Việt Nam Về Tái Thẩm
- Số Kháng Nghị Tái Thẩm Trên Tổng Số Bản Án, Quyết Định Có Hlpl Bị Kháng Nghị
- Nguyên Nhân Của Những Hạn Chế, Bất Cập Trong Thực Tiễn Tái Thẩm
Xem toàn bộ 161 trang tài liệu này.
- Những người tham gia phiên toà tái thẩm: Phiên toà tái thẩm có sự tham gia của VKS cùng cấp. Khi xét thấy cần thiết, Toà án phải triệu tập người bị kết án, người bào chữa và có thể triệu tập những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng nghị tham gia phiên toà.
Phiên toà tái thẩm giống như phiên toà sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm bắt buộc phải có sự tham gia của VKS. Đại diện VKS tham gia phiên toà tái thẩm là Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên cùng cấp với Toà án có thẩm quyền tái thẩm [68]. Phó Viện trưởng và Kiểm sát viên chỉ phát biểu quan điểm về những vấn đề đã được Viện trưởng cho ý kiến. Nếu phải thay đổi cơ bản quan điểm đã được Viện trưởng cho ý kiến phải đề nghị Hội đồng xét xử hoãn phiên toà, báo cáo Viện trưởng quyết định.
Người bị kết án, người bào chữa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến kháng nghị được triệu tập khi xét thấy cần thiết. Việc không giải thích trường hợp nào cần thiết phải triệu tập những người này tham gia tố tụng đã gây khó khăn trong quá trình áp dụng như: không xác định được tư cách tố tụng, quyền và nghĩa vụ khi tham gia phiên toà, trường hợp đã triệu tập nhưng vắng mặt giải quyết thế nào.
Có quan điểm cho rằng không cần thiết phải triệu tập người bị kết án, người bào chữa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến kháng nghị tham gia phiên toà giám đốc thẩm do họ không còn là người tham gia tố tụng theo luật định, họ không còn các quyền và nghĩa vụ tố tụng. Toà án cấp giám đốc thẩm không có quyền sửa án, việc triệu tập người bị kết án cũng như một số người tham gia tố tụng khác vì vậy càng không cần thiết [29, tr. 165-166] (quy định về những người tham gia phiên toà
tái thẩm được thực hiện giống như phiên toà giám đốc thẩm). Quan điểm khác cho rằng, những người tham gia tố tụng luôn cần thiết phải có mặt tại phiên toà [25, tr. 20]. Về sự có mặt của người bào chữa, có luật sư cho rằng quy định như hiện nay là hạn chế quyền của các luật sư tham gia vào quá trình xét lại bản án quyết định của Toà án đã có HLPL theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm [19, tr. 11]. Có quan điểm cho rằng quy định hiện nay phù hợp với thực tiễn giám đốc thẩm, tái thẩm ở Việt Nam nhưng cần sửa đổi cho thống nhất trong quá trình áp dụng [62, tr. 4-5].
TTHS Cộng hoà Pháp theo hướng Toà án tái thẩm ra bản án trên cơ sở xét hỏi và tranh luận công khai tại phiên toà, với sự tham gia, cho ý kiến bằng miệng hoặc bằng văn bản của người yêu cầu tái thẩm hoặc người đại diện cho người yêu cầu, đại diện cơ quan công tố và bên dân sự có liên quan (ở Cộng hoà Pháp người bị kết án có quyền yêu cầu tái thẩm). Bên dân sự phải được báo trước, nếu không Toà án sẽ quyết định lùi xét xử vào một ngày khác. Người yêu cầu tái thẩm có thể được đại diện bởi luật sư tư vấn hoặc luật sư đăng ký thường xuyên tại một văn phòng luật sự [115]. Quy định này tạo điều kiện cho người yêu cầu tái thẩm (bao gồm cả người bị kết án) trình bày lý do, căn cứ, bảo vệ ý kiến của mình đồng thời giúp Toà án có thể đánh giá đúng tình tiết mới khi tái thẩm.
- Thành phần Hội đồng tái thẩm
Điều 297 BLTTHS năm 2003 quy định thành phần Hội đồng tái thẩm giống thành phần Hội đồng giám đốc thẩm.
Điều 23 và Điều 32, Luật tổ chức TAND năm 2014 quy định việc tổ chức xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm của Hội đồng thẩm phán TANDTC và Ủy ban thẩm phán TAND cấp cao thực hiện theo quy định của luật tố tụng. Quy định hiện nay trong BLTTHS năm 2003 không còn phù hợp. Việc sửa đổi sẽ được đề cập trong chương 4 của luận án.
* Chuẩn bị phiên toà tái thẩm và thủ tục phiên toà tái thẩm
- Chuẩn bị phiên toà tái thẩm
BLTTHS năm 2003 quy định về việc chuẩn bị phiên toà tái thẩm, đây là quy định mới so với BLTTHS năm 1988. Theo đó, Chánh án Toà án phân công một
Thẩm phán làm bản thuyết trình về vụ án. Bản thuyết trình tóm tắt nội dung vụ án và các bản án, quyết định của các cấp Toà án, nội dung của kháng nghị, được gửi cho các thành viên Hội đồng chậm nhất là bảy ngày trước ngày mở phiên toà tái thẩm. Khi tái thẩm ở Hội đồng thẩm phán, người được Chánh án phân công chuẩn bị bản thuyết trình là một thành viên của Hội đồng thẩm phán (Chánh toà hình sự chuẩn bị và trình bày bản thuyết trình trước Hội đồng thẩm phán, nếu Chánh toà vắng mặt thì Phó chánh toà chuẩn bị bản thuyết trình, người trình bày là một thành viên của Hội đồng) [34, tr. 21]. Hiện nay tái thẩm tiến hành tại TANDTC và TAND cấp cao, việc phân công Thẩm phán làm bản thuyết trình được xác định rò ràng bảo đảm Thẩm phán chuẩn bị bản thuyết trình là thành viên của Hội đồng tái thẩm.
- Thủ tục phiên toà tái thẩm
Phiên toà tái thẩm diễn ra giống phiên toà giám đốc thẩm. Theo quy định tại Điều 282 BLTTHS năm 2003, tại phiên toà một thành viên của Hội đồng tái thẩm trình bày bản thuyết trình về vụ án. Các thành viên của Hội đồng tái thẩm phát biểu ý kiến, đại diện VKS phát biểu quan điểm giải quyết vụ án. Nếu đã triệu tập người bị kết án, người bào chữa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng nghị thì những người này được trình bày ý kiến trước khi đại diện VKS phát biểu. Trong trường hợp họ vắng mặt, Hội đồng tái thẩm vẫn có thể tiến hành xét xử.
Phiên toà tái thẩm của Ủy ban Thẩm phán TAND cấp tỉnh, Ủy ban Thẩm phán TAQS cấp quân khu, Hội đồng Thẩm phán TANDTC khi biểu quyết về nội dung kháng nghị thì phải biểu quyết theo trình tự những ý kiến đồng ý với kháng nghị, những ý kiến không đồng ý với kháng nghị. Nếu không có loại ý kiến nào được quá nửa tổng số thành viên của Ủy ban Thẩm phán, Hội đồng Thẩm phán biểu quyết tán thành, thì phải hoãn phiên toà. Trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày ra quyết định hoãn phiên toà thì Ủy ban Thẩm phán, Hội đồng Thẩm phán phải mở phiên toà xét xử lại vụ án với sự tham gia của toàn thể các thành viên.
Việc quy định thủ tục phiên toà tái thẩm giống thủ tục phiên toà giám đốc thẩm không được tất cả các nhà nghiên cứu khoa học pháp lý và những người áp dụng pháp luật đồng tình và cho rằng quy định này là chưa hoàn toàn chính xác. Nếu như tại phiên toà giám đốc thẩm, Toà án xem xét, đánh giá việc áp dụng pháp luật với các
tình tiết, chứng cứ đã có trong hồ sơ vụ án thì tại phiên toà tái thẩm các chứng cứ, tình tiết được xem xét lần đầu. Vì vậy, cần có sự khác nhau trong quy định về thủ tục phiên toà tái thẩm với phiên toà giám đốc thẩm. Phiên toà tái thẩm có việc điều tra trực tiếp về các tình tiết mới với sự có mặt của những người liên quan đến tình tiết đó như người làm chứng đã khai báo gian dối, người phiên dịch đã dịch sai sự thật, người làm sai lệch hồ sơ vụ án… Những người này phải được xét hỏi, thậm chí cho tiến hành tranh luận. Chỉ sau khi tiến hành điều tra tại phiên toà về các tình tiết mới, nghe đại diện VKS phát biểu ý kiến, Hội đồng tái thẩm mới ra quyết định [10, tr. 6-7].
BLTTHS năm 2003 không đề cập đến việc xem xét chứng cứ mới tại phiên toà tái thẩm và giám đốc thẩm. Việc có nên quy định xem xét chứng cứ mới tại phiên toà tái thẩm hay không xuất phát từ tính chất của tái thẩm. Chứng cứ mới và “tình tiết mới” sử dụng làm căn cứ đề kháng nghị tái thẩm có sự khác nhau. Chứng cứ mới cần chia thành hai loại. Loại thứ nhất là những chứng cứ dùng làm căn cứ để xác định hành vi phạm tội mới, người phạm tội mới bị bỏ lọt và những tình tiết mới có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án hoặc quyết định mà Toà án không biết được khi ra bản án hoặc quyết định đã có HLPL. Chứng cứ trong loại thứ nhất có thể dùng để xác định căn cứ khởi tố vụ án hoặc là căn cứ để kháng nghị tái thẩm hoặc xem xét lại theo thủ tục tái thẩm. Loại thứ hai là những chứng cứ mới không có giá trị chứng minh “sự kiện pháp lý mới” hay “tình tiết mới quan trọng” của vụ án mà chỉ có ý nghĩa làm rò thêm hành vi phạm tội hoặc những tình tiết đã được xem xét, đánh giá trong bản án bị kháng nghị [17, tr. 4]. Với tính chất của tái thẩm là thủ tục xem xét lại bản án đã có HLPL bị kháng nghị vì mới phát hiện tình tiết làm thay đổi cơ bản nội dung bản án, quyết định thì việc phải xem xét chứng cứ mới tại phiên toà là cần thiết. Mặc dù, tình tiết mới phát hiện đã được kiểm tra xác minh để quyết định có kháng nghị tái thẩm hay không nhưng tại phiên toà Hội đồng tái thẩm vẫn phải đánh giá để khẳng định ý nghĩa của tình tiết mới (với tính chất là chứng mới ở loại thứ nhất) đối với nội dung bản án, quyết định. Nếu không có việc xem xét các chứng cứ mới thì Hội đồng tái thẩm không quyết định được sẽ giải quyết thế nào với bản án, quyết định bị kháng nghị.
Tại Cộng hoà Pháp, tranh luận diễn ra công khai tại phiên toà tái thẩm do có
việc triệu tập các chủ thể có yêu cầu tái thẩm [115]. Việc hoàn thiện BLTTHS năm 2003 cần tham khảo, cân nhắc để bổ sung nếu cần thiết.
* Thẩm quyền tái thẩm của Toà án
“Thẩm quyền là quyền xem xét để kết luận và định đoạt một vấn đề theo pháp luật” [91, tr. 922]. Dưới góc độ khoa học pháp lý, thẩm quyền của Toà án là tổng hợp các quyền về hình thức cũng như về nội dung mà pháp luật quy định cho Toà án được xem xét, giải quyết những vụ việc nhất định, trong phạm vi, giới hạn nhất định và có những cách giải quyết, định đoạt nhất định [14, tr. 3; 24, tr. 32]. Thẩm quyền tái thẩm của Toà án là chế định gồm nhiều nội dung trong đó có các nội dung cơ bản xác định chủ thể có thẩm quyền tái thẩm (thẩm quyền tái thẩm); giới hạn những vấn đề được giải quyết khi tái thẩm (phạm vi tái thẩm); quyết định giải quyết kháng nghị của Hội đồng tái thẩm (thẩm quyền của Hội đồng tái thẩm).
- Thẩm quyền tái thẩm
Điều 296 BLTTHS năm 2003 quy định có ba cấp có quyền tái thẩm, một cấp ở Toà án cấp tỉnh và quân khu, hai cấp ở TANDTC. Trong quy định của BLTTHS năm 1988, ngoài ba cấp nêu trên, tái thẩm còn được tiến hành ở Ủy ban thẩm phán TANDTC. Vì vậy, việc một vụ án trải qua nhiều lần tái thẩm là có khả năng xảy ra trên thực tiễn cũng như trên phương diện pháp luật. Theo đánh giá thì điều này “để lại trong tâm lý xã hội những ấn tượng rất không hay về hiệu quả hoạt động của các cơ quan pháp luật nói chung và các Toà án nói riêng” [11, tr. 3]. BLTTHS năm 2003 không quy định thẩm quyền tái thẩm cho Ủy ban thẩm phán TANDTC vừa hạn chế được hậu quả nêu trên, vừa phù hợp với quy định về tổ chức quy định trong Luật tổ chức TAND năm 2002.
Điều 22, 31 Luật tổ chức TAND năm 2014 quy định thẩm quyền tái thẩm cho Hội đồng thẩm phán TANDTC và Ủy ban thẩm phán TAND cấp cao. Quy định có tính chất tập trung hơn về thẩm quyền, hạn chế tái thẩm nhiều cấp và cần được cụ thể hoá trong BLTTHS cho phù hợp.
Điều 296 không đề cập đến trường hợp những bản án, quyết định đã có HLPL về cùng một vụ án thuộc thẩm quyền tái thẩm của các cấp khác nhau thì giải quyết như thế nào.
Thẩm quyền tái thẩm quy định tập trung tại một cấp Toà án như quy định trong BLTTHS Cộng hoà Pháp. Đoạn 3 Điều 623 BLTTHS Cộng hoà Pháp quy định, Phòng xét xử hình sự của Toà án tối cao thực hiện chức năng của toà tái thẩm và những thẩm phán đã tham gia vào xem xét vụ việc với tư cách là thành viên của Ủy ban tái thẩm sẽ không tham gia xét xử. Toà tái thẩm thụ lý giải quyết vụ việc trên cơ sở quyết định rò ràng của Ủy ban thẩm phán [115]. Tuy nhiên, có những nước thẩm quyền tái thẩm cũng tiến hành tại nhiều cấp Toà án tùy thuộc vào bản án bị kháng nghị tái thẩm là của Toà án cấp nào. Điều 417 BLTTHS Liên bang Nga quy định việc tiến hành tái thẩm tại nhiều cấp Toà án bao gồm: Toà án quận, Hội đồng thẩm phán Toà án tối cao nước Cộng hoà, Toà án vùng hoặc khu vực, Toà án thành phố trực thuộc Liên bang, Toà án vùng hoặc khu vực tự trị; Ủy ban thẩm phán về các vụ án hình sự Toà án tối cao Liên bang Nga; Ủy ban Thẩm phán phúc thẩm Toà án tối cao Liên bang Nga; Hội đồng thẩm phán Toà án tối cao Liên bang Nga. Đối với các bản án của TAQS, tái thẩm được tiến hành tại TAQS vùng (hạm đội) hoặc Ủy ban thẩm phán quân sự Toà án tối cao Liên bang Nga [88, tr. 174-175].
- Phạm vi tái thẩm
BLTTHS năm 2003 giống BLTTHS năm 1988 không quy định về phạm vi tái thẩm. Đây là điểm đặc biệt của BLTTHS khi quy định về thủ tục tái thẩm so với các thủ tục khác. Khi xét xử theo thủ tục sơ thẩm, giới hạn của việc xét xử được nhà làm luật quy định tại Điều 196 xác định phạm vi đối tượng cũng như hành vi bị Toà án sơ thẩm tiến hành xét xử, đồng thời khẳng định việc Toà án quyết định áp dụng theo tội danh nào để xét xử so với quyết định truy tố của VKS. Phạm vi xét xử phúc thẩm quy định tại Điều 241, phạm vi giám đốc thẩm quy định tại Điều 284. Khi tiến hành giám đốc thẩm, việc xem xét toàn bộ nội dung vụ án là bắt buộc.
BLTTHS năm 2003 không quy định phạm vi tái thẩm dẫn đến cách hiểu là Hội đồng tái thẩm phải xem xét lại toàn bộ vụ án mà không có hạn chế trong nội dung kháng nghị. Tuy nhiên hiểu và áp dụng theo cách này dẫn đến hậu quả làm mất đi tính ổn định của bản án hoặc quyết định của Toà án. Bản án, quyết định của Toà án phán quyết về một hoặc nhiều nội dung khác nhau, tình tiết mới được phát
hiện không phải trường hợp nào cũng làm thay đổi cơ bản toàn bộ nội dung bản án, quyết định đã có HLPL của Toà án, việc xem xét các phần không bị ảnh hưởng bởi tình tiết mới thực sự là không cần thiết.
Trên thực tế Hội đồng tái thẩm không nhất thiết xem xét toàn bộ bản án, quyết định bị kháng nghị mà có trường hợp chỉ xem xét trong nội dung của kháng nghị. Trên cơ sở đó, Hội đồng tái thẩm có thể tuyên hủy một phần bản án, quyết định của Toà án có HLPL bị kháng nghị. Đây là trường hợp tình tiết mới được phát hiện là căn cứ kháng nghị tái thẩm làm thay đổi cơ bản một phần nội dung bản án hoặc quyết định của Toà án đã có HLPL như chỉ làm thay đổi nội dung phán quyết về phần dân sự trong bản án hình sự trong, phần xử lý vật chứng [73]. Hội đồng tái thẩm xem xét và tuyên hủy một phần bản án trong trường hợp vụ án có đồng phạm mà tình tiết mới chỉ làm thay đổi cơ bản phần nội dung bản án liên quan đến đối tượng bị kháng nghị [50, 80]. Trong trường hợp tình tiết mới được phát hiện là căn cứ để kháng nghị tái thẩm làm thay đổi cơ bản toàn bộ nội dung của bản án hoặc quyết định đã có HLPL, Hội đồng tái thẩm mới xem xét toàn bộ và hủy toàn bộ bản án, quyết định [22, 83]. Trong tất cả các trường hợp thực tế trên, Hội đồng tái thẩm đều xem xét trong phạm vi kháng nghị của VKS.
Như vậy, nếu quy định Hội đồng tái thẩm phải xem xét toàn bộ vụ án giống như phạm vi giám đốc thẩm là không cần thiết. Phạm vi xem xét của Hội đồng tái thẩm căn cứ vào nội dung kháng nghị, căn cứ vào tình tiết mới được phát hiện có ảnh hưởng, làm thay đổi như thế nào đến các nội dung đã tuyên trong bản án, quyết định có HLPL. Việc có cần xem xét nội dung khác hay không Hội đồng tái thẩm quyết định trên cơ sở đánh giá tình tiết mới đã được VKS kiểm tra, xác minh trước khi kháng nghị tái thẩm.
Pháp luật TTHS của Pháp quy định về tái thẩm: “Trong trường hợp bị cáo bị kết án phạm nhiều tội, tái thẩm chỉ được áp dụng đối với từng tội được xác định trong bản án” [115]. Tái thẩm không bắt buộc phải xem xét lại toàn bộ vụ án, mà có thể xem xét từng phần. Tuy nhiên trong quy định của BLTTHS của một số nước như Nga, Đức phạm vi tái thẩm cũng không được đề cập.