- Thẩm quyền của Hội đồng tái thẩm
Điều 298 BLTTHS năm 2003 quy định thẩm quyền của Hội đồng tái thẩm nhưng không đưa ra căn cứ cụ thể. Những phân tích sau đây là dưới góc độ nghiên cứu khoa học trên cơ sở tham khảo thực tế các quyết định tái thẩm.
+ Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đã có HLPL.
Quy định này dẫn đến hai cách hiểu: thứ nhất, không chấp nhận kháng nghị kèm theo đó luôn là quyết định giữ nguyên bản án, quyết định có HLPL; thứ hai, không chấp nhận kháng nghị nhưng cũng không thể giữ nguyên bản án hoặc quyết định đã có HLPL. Đối với thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm, việc không chấp nhận kháng nghị không thể luôn kèm theo đó là quyết định giữ nguyên bản án, quyết định đang bị xem xét. Giữ nguyên bản án, quyết định đang bị xem xét chỉ là một trong những phương án khi không chấp nhận kháng nghị [17, tr. 5]. Ngoài ra Hội đồng giám đốc thẩm có thể không chấp nhận kháng nghị nhưng tuyên hủy bản án đã có HLPL và đình chỉ vụ án. Vì vậy, thẩm quyền đầu tiên của Hội đồng giám đốc thẩm không chỉ là không chấp nhận kháng nghị mà bao gồm cả giữ nguyên bản án và quyết định đã có HLPL. “Nội dung không chấp nhận kháng nghị” và “giữ nguyên bản án hoặc quyết định đã có HLPL” là hai nội dung cần và đủ để phân biệt quyền này với quyền khác của Hội đồng giám đốc thẩm [29, tr. 98].
Giống như thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm, không phải trong mọi trường hợp việc Hội đồng tái thẩm không chấp nhận kháng nghị đều dẫn đến giữ nguyên bản án có HLPL do có thể xảy ra trường hợp không thể giữ nguyên bản án. Ví dụ: trong khi tiến hành tái thẩm người bị kết án theo hướng không có lợi chết, nếu kháng nghị không có căn cứ, Hội đồng tái thẩm sẽ không chấp nhận kháng nghị nhưng không giữ nguyên bản án, quyết định đã có HLPL mà phải đình chỉ vụ án về phần trách nhiệm hình sự đối với người bị kết án đã chết. Với tính chất của tái thẩm, xác định ý nghĩa của tình tiết mới phát hiện với nội dung vụ án tại phiên toà quyết định việc có giữ nguyên bản án, quyết định bị kháng nghị hay không. “Hội đồng tái thẩm quyết định không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định có HLPL nếu tình tiết được dùng làm căn cứ để kháng nghị không làm thay đổi nội
dung vụ án” [61, tr. 481]. Đó có thể là trường hợp tình tiết mới phát hiện khẳng định có đồng phạm trong vụ án đã giải quyết, tuy nhiên nếu tình tiết không làm thay đổi cơ bản đến việc xác định tội danh, hình phạt đối với người đã bị kết án, có thể giải quyết trong vụ án khác hoàn toàn riêng biệt, Hội đồng tái thẩm sẽ quyết định không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đã có HLPL [47].
Tại Cộng hoà Pháp, Toà án có toàn quyền quyết định mức độ quan trọng của các tình tiết mà Toà án xem xét trong thủ tục tái thẩm. Đoạn 2 Điều 625 BLTTHS Cộng hoà Pháp quy định: “Trong trường hợp xác định yêu cầu tái thẩm không đủ căn cứ, Toà tái thẩm ra quyết định không chấp nhận yêu cầu” [31, tr. 261-261]. Bản án tiếp tục được thi hành, người yêu cầu tái thẩm phải chấp hành hình phạt và nếu việc thi hành án bị đình chỉ thì hủy bỏ sự đình chỉ. Điều 418, BLTTHS Cộng hoà Liên bang Nga cũng chỉ quy định: “Sau khi xem xét kết luận của VKS về việc tiến hành tái thẩm đối với vụ án Toà án ra một trong các quyết định: 1)…2)…3) Bác kết luận của VKS” mà không có quy định cụ thể [88, tr. 175].
+ Hủy bản án hoặc quyết định bị kháng nghị và đình chỉ vụ án.
BLTTHS năm 2003 không quy định trường hợp nào Hội đồng tái thẩm hủy bản án và quyết định bị kháng nghị và đình chỉ vụ án. Khi vụ án được giải quyết theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm và xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, BLTTHS năm 2003 đều quy định các trường hợp cụ thể Toà án có thẩm quyền tuyên bố đình chỉ vụ án. Từ quy định về các căn cứ đình chỉ vụ án được quy định khi vụ án giải quyết trong các giai đoạn tố tụng trước đó cũng như thực tiễn áp dụng cho thấy các căn cứ không khởi tố vụ án tại Điều 107 BLTTHS năm 2003 cũng là các căn cứ để Hội đồng tái thẩm tuyên bố hủy bản án hoặc quyết định bị kháng nghị và đình chỉ vụ án. Đa phần các nhà nghiên cứu thừa nhận nội dung Điều 107 là căn cứ để Hội đồng tái thẩm đình chỉ vụ án [67, tr. 42; 94, tr. 17].
Các căn cứ được quy định tại Điều 107 BLTTHS năm 2003 có thể xuất hiện trước khi khởi tố vụ án hình sự mà trong các giai đoạn tố tụng trước đó các cơ quan có thẩm quyền không biết hoặc không biết tình tiết này không đúng thực tế khách quan và vì vậy đã khởi tố, điều tra, thậm chí đã có bản án tuyên có HLPL. Trong
trường hợp bản án hoặc quyết định bị xem xét lại theo thủ tục tái thẩm, Hội đồng tái thẩm cần phải hủy bản án hoặc quyết định bị kháng nghị và đình chỉ vụ án. Các căn cứ này cũng có thể xuất hiện sau khi bản án đã có HLPL đang bị xét lại theo thủ tục tái thẩm. Ví dụ: bản án có HLPL bị kháng nghị tái thẩm vì phát hiện kết luận giám định có những điểm quan trọng là không đúng sự thật làm cho vụ án bị xét xử sai, nhưng trong khi tiến hành tái thẩm tội phạm được đại xá hoặc người phạm tội chết, trường hợp này Hội đồng tái thẩm phải hủy bản án có HLPL và đình chỉ vụ án.
Hội đồng tái thẩm hủy và đình chỉ toàn bộ vụ án hay hủy và đình chỉ một phần bản án, quyết định phụ thuộc vào căn cứ hủy và đình chỉ liên quan đến toàn bộ hay một phần bản án, quyết định bị kháng nghị [51].
Luật TTHS Cộng hoà Pháp cũng quy định về các trường hợp Hội đồng tái thẩm hủy án nhưng không xét xử lại tại đoạn 3 Điều 625 BLTTHS Pháp bao gồm: bị cáo được hưởng đặc xá, chết, bị tâm thần, hết thời hiệu truy cứu hoặc trong trường hợp không còn tồn tại một hoặc nhiều yếu tố cấu thành tội phạm (sự vô tội của bị cáo được chứng minh). Việc hủy án tại Pháp được áp dụng đối với toàn bộ hoặc một phần bản án.
+ Hủy bản án hoặc quyết định bị kháng nghị để điều tra lại hoặc xét xử lại.
Hội đồng tái thẩm, giám đốc thẩm đều có quyền ra quyết định hủy bản án hoặc quyết định bị kháng nghị để điều tra lại hoặc xét xử lại. BLTTHS năm 2003 cũng giống như BLTTHS năm 1988 không quy định căn cứ áp dụng. Vì vậy, khi căn cứ kháng nghị được chấp thuận, tức là bản án hoặc quyết định có HLPL sai lầm, nếu không có căn cứ để đình chỉ vụ án Hội đồng tái thẩm ra quyết định hủy bản hoặc quyết định bị kháng nghị để điều lại hoặc xét xử lại [67, tr. 41].
Tuy nhiên, căn cứ hủy bản án không giống với các căn cứ kháng nghị. “Căn cứ kháng nghị chỉ là điều kiện để bản án được đưa ra xem xét lại, còn căn cứ hủy bản án là điều bắt buộc khi hủy bỏ giá trị pháp lý của bản án. Các căn cứ hủy bản án có thể cả bao gồm cả căn cứ kháng nghị” [94, tr. 16]. Căn cứ hủy bản án, quyết định đã có HLPL là những tình tiết mới được phát hiện làm thay đổi cơ bản nội dung bản án hoặc quyết định mà Toà án không biết được khi ra bản án hoặc quyết định.
Việc hủy bản án, quyết định có HLPL bị kháng nghị tái thẩm kèm theo đó là quyết định điều tra lại hoặc xét xử lại, hoặc đình chỉ vụ án. Hội đồng tái thẩm có thể quyết định điều tra lại hoặc xét xử lại khi không có căn cứ để đình chỉ vụ án. Hội đồng tái thẩm quyết định điều tra lại hay xét xử lại tùy thuộc vào tình tiết mới được phát hiện trong giai đoạn điều tra hay xét xử [61, tr. 481].
Nếu Hội đồng tái thẩm quyết định hủy bản án hoặc quyết định đã có HLPL để điều tra lại thì trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày ra quyết định, hồ sơ vụ án phải được chuyển cho VKS có thẩm quyền để điều tra lại theo thủ tục chung (khoản 1 Điều 300 BLTTHS năm 2003).
Căn cứ vào khoản 2 Điều 300 BLTTHS năm 2003 có thể hiểu Hội đồng tái thẩm hủy án để xét xử lại là xét xử lại ở cấp sơ thẩm vì điều luật quy định như sau: “Nếu Hội đồng tái thẩm quyết định hủy bản án hoặc quyết định đã có HLPL để xét xử sơ thẩm lại vụ án thì trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày ra quyết định, hồ sơ vụ án phải được chuyển cho Toà án có thẩm quyền để xét xử lại theo thủ tục chung”. Thực tế tái thẩm, nếu vụ án đã xét xử hai cấp, Hội đồng tái thẩm tuyên hủy cả bản án phúc thẩm và bản án sơ thẩm để xét xử sơ thẩm lại nếu tình tiết mới liên quan đến việc xác định sai sự kiện thực tế trong quá trình xét xử từ giai đoạn sơ thẩm và không được phát hiện ở cấp phúc thẩm [50]. Có trường hợp, Hội đồng tái thẩm tuyên hủy bản án, quyết định phúc thẩm để phúc thẩm lại trong trường hợp tình tiết mới làm thay đổi nội dung của bản án, quyết định phúc thẩm [20]. Hiện nay, trong BLTTHS quy định nhiều cấp Toà án có thẩm quyền tái thẩm nên thực tế có trường hợp Hội đồng tái thẩm tuyên hủy quyết định tái thẩm để tái thẩm lại [21].
- Hiệu lực của quyết định tái thẩm
Theo quy định tại Điều 299 BLTTHS năm 2003: “Quyết định của Hội đồng tái thẩm có HLPL kể từ ngày ra quyết định”. Quyết định tái thẩm giữ nguyên bản án, quyết định có HLPL bị kháng nghị thì bản án hoặc quyết định trước đó bị kháng nghị sẽ được thi hành hoặc tiếp tục thi hành. Trường hợp Hội đồng tái thẩm hủy bỏ bản án hoặc quyết định có HLPL và đình chỉ vụ án, trình tự tố tụng đối với vụ án hình sự có thể chấm dứt. Phán quyết của Hội đồng tái thẩm ảnh hưởng trực tiếp đến các quyền và nghĩa vụ hình sự cũng như dân sự đối với người bị kết án và những
chủ thể tham gia tố tụng khác. Trình tự vụ án được khôi phục lại từ giai đoạn điều tra hoặc xét xử, nếu quyết định của Hội đồng tái thẩm là hủy bản án hoặc quyết định bị kháng nghị để điều tra lại hoặc xét xử lại. Trường hợp điều tra hoặc xét xử lại, quyền lợi của người bị kết án và người tham gia tố tụng khác có liên quan sẽ được quyết định bởi bản án hoặc quyết định khác. Hội đồng tái thẩm không đưa ra hướng dẫn về việc điều tra lại hoặc xét xử lại mà chỉ khẳng định tình tiết mới có ý nghĩa như thế nào đối với nội dung bản án hoặc quyết định có HLPL đang xem xét. Việc điều tra lại hoặc xét xử lại tiến hành theo thủ tục chung.
Quy định về hiệu lực của quyết định tái thẩm trong BLTTHS năm 2003 không đề cập đến các vấn đề khác như vấn đề bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần của người bị kết án trong trường hợp họ vô tội (hiện nay giải quyết theo quy định của Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm 2009), cũng không đề cập đến quyền của bên thứ ba một cách cụ thể.
Về hiệu lực của quyết định tái thẩm, pháp luật TTHS Cộng hoà Pháp quy định cụ thể ngay trong Bộ luật những nội dung như: hiệu lực của việc hủy án trên phương diện hình sự và dân sự, vấn đề quyền lợi của bên thứ ba, việc bồi thường thiệt hại về vật chất hoặc tinh thần.
3.2. Thực tiễn thi hành pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về tái thẩm
3.2.1. Thực tiễn thi hành pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về phát hiện và xác minh những tình tiết mới
* Việc phát hiện các tình tiết mới thông qua giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm hạn chế. Số lượng đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm hàng năm tồn đọng trên VKSNDTC, TANDTC là rất lớn, trong đó có những vụ việc khiếu nại nhiều lần, kéo dài, ảnh hưởng đến quyền lợi của Nhà nước, tập thể và công dân.
Số lượng đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm hàng năm nhiều nhưng giải quyết hạn chế. Số lượng đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm còn tồn lại hàng năm khoảng 50% số đơn tiếp nhận và khi tính trong phạm vi nhiều năm thì số lượng tồn đọng là rất lớn [2, tr. 36-37]. Trong Báo cáo tổng kết 10 năm thi hành BLTTHS năm 2003 của VKSTC số 11/BC-VKSTC ngày 19/01/2015, cũng lần nữa khẳng định: “số đơn khiếu nại và đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm
ngày một tăng, nhiều trường hợp gay gắt, kéo dài. Công tác giải quyết đơn khiếu nại, đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm vẫn chưa đáp ứng yêu cầu” [66]. Hiện nay tại TANDTC vẫn còn tồn 1.118 đơn chưa được giải quyết.
Thực tế hầu hết các đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm được gửi tới cả TANDTC và VKSNDTC nên cả hai cơ quan cùng phải nghiên cứu, trả lời. Cùng một vụ việc nhưng đơn đề nghị được gửi nhiều lần kể cả trường hợp đã trả lời không có căn cứ kháng nghị. Gia tăng tình trạng gửi đơn vượt cấp không đúng thẩm quyền như gửi tới Lãnh đạo Đảng, Chính phủ, Quốc hội… Các đơn đề nghị hầu như không nêu được căn cứ nên các cơ quan có thẩm quyền mất thời gian nghiên cứu hồ sơ mới có thể quyết định kháng nghị hoặc trả lời đơn [43, tr. 277-278]. Việc rút hồ sơ từ các Toà án địa phương lên còn gặp nhiều khó khăn [43, tr. 313].
Theo đánh giá của cán bộ thực tiễn, các vụ án phải xem xét giải quyết theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm có đặc điểm là: vụ án nhỏ thì hồ sơ cũng vài trăm trang, trung bình hồ sơ khoảng 300 đến 500 trang, đối với các vụ án lớn hồ sơ có thể tới hàng ngàn hoặc chục ngàn trang. Hồ sơ nhiều vụ án xây dựng từ lâu, cũ, rách, giấy xấu, chữ viết khó đọc… ảnh hưởng đến tiến độ nghiên cứu hồ sơ để giải quyết đơn. Có vụ án việc nghiên cứu kéo dài có thể vài tháng, nhiều vụ không đơn thuần là việc khiếu nại tái thẩm mà còn có nội dung tố cáo cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng có hành vi, quyết định trái pháp luật như mớm cung, ép cung, dùng nhục hình làm vụ việc trở nên phức tạp, nhạy cảm trong giải quyết.
* Còn trường hợp VKSNDTC yêu cầu Toà án đã xét xử rút hồ sơ vụ án chuyển cho VKS để nghiên cứu, xác minh tình tiết mới để kháng nghị tái thẩm nhưng không được đáp ứng kịp thời, có trường hợp phải yêu cầu nhiều lần dẫn đến việc giải quyết yêu cầu tái thẩm kéo dài [2, tr. 38].
Nguyên nhân do pháp luật không quy định cụ thể về trình tự, thủ tục kiểm tra, xác minh tình tiết mới phát hiện. Không quy định trách nhiệm của Toà án cũng như thời hạn giải quyết khi VKS yêu cầu Toà án gửi hồ sơ vụ án. Các hoạt động kiểm tra, xác minh chưa được xác định có phải là hoạt động tố tụng hay không để bảo đảm về trình tự thủ tục khi tiến hành. Trên thực tế, sau khi kiểm tra, xác minh
nếu có căn cứ kháng nghị tái thẩm thì kết quả của các hoạt động này được sử dụng như một nguồn chứng cứ quan trọng để Hội đồng tái thẩm quyết định về phương án xử lý bản án, quyết định có HLPL bị kháng nghị.
3.2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật tố tụng hình sự về kháng nghị tái thẩm
* Số lượng kháng nghị tái thẩm chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng số các bản án, quyết định đã có HLPL của Toà án.
Theo số liệu thống kê từ Cục thống kê VKSNDTC về án hình sự bị kháng nghị tái thẩm và số liệu án sơ thẩm và phúc thẩm đã xét xử trong báo cáo tổng kết công tác của ngành kiểm sát nhân dân từ năm 2005 đến 2014, tình hình kháng nghị tái thẩm của VKS thể hiện cụ thể ở Bảng 3.1.1
Bảng 3.1. Số lượng kháng nghị tái thẩm và tỷ lệ kháng nghị tái thẩm trên tổng số án có HLPL
Số án có hiệu lực pháp luật | Số án bị kháng nghị tái thẩm | Tỷ lệ án tái thẩm/án có hiệu lực pháp luật (%) | |
2005 | 60.198 | 5 | 0,0083 |
2006 | 67.741 | 12 | 0,0177 |
2007 | 69.193 | 10 | 0,0145 |
2008 | 70.599 | 14 | 0,0198 |
2009 | 71.079 | 17 | 0,0239 |
2010 | 63.340 | 3 | 0,0047 |
2011 | 71.189 | 9 | 0,0126 |
2012 | 77.431 | 13 | 0,0168 |
2013 | 94.357 | 11 | 0,0117 |
2014 | 92.881 | 16 | 0,0172 |
Tổng | 738.008 | 110 | 0,0149 |
Có thể bạn quan tâm!
- Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự Việt Nam Về Tái Thẩm
- Tái thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam – những vấn đề lý luận và thực tiễn - 10
- Tái thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam – những vấn đề lý luận và thực tiễn - 11
- Số Kháng Nghị Tái Thẩm Trên Tổng Số Bản Án, Quyết Định Có Hlpl Bị Kháng Nghị
- Nguyên Nhân Của Những Hạn Chế, Bất Cập Trong Thực Tiễn Tái Thẩm
- Yêu Cầu Nâng Cao Chất Lượng Tái Thẩm Ở Việt Nam
Xem toàn bộ 161 trang tài liệu này.
(Nguồn: Vụ thống kê VKSNDTC năm 2005 - 2014)
1 Chúng tôi sử dụng số lượng án đã xét xử sơ thẩm và phúc thẩm để xác định một cách tương đối số lượng các bản án, quyết định của Toà án đã có HLPL. Do số liệu thống kê của cả hai ngành TAND và VKSND về thi hành án chỉ thống kê số lượng án phạt tù phải thi hành mà không có số liệu chung về số lượng bản án quyết định có HLPL
Phân tích các số liệu trong bảng tổng hợp trên có thể nhận thấy số lượng án bị kháng nghị tái thẩm chiếm tỉ lệ nhỏ trên tổng số án đã có HLPL. Trong 10 năm từ 2005 đến 2014 tổng số kháng nghị tái thẩm của VKS là 110 kháng nghị trên tổng số
738.008 vụ đã xét xử sơ thẩm và phúc thẩm chiếm tỉ lệ 0,0149%. Số lượng kháng nghị tái thẩm ít thể hiện các bản án, quyết định có HLPL là có căn cứ, việc xác định sự thật vụ án hình sự về cơ bản là đúng đắn. Lý do kháng nghị tái thẩm ít vì từ khi khởi tố vụ án đến khi Toà án ra bản án, quyết định có HLPL là quá trình liên tục kiểm tra, đánh giá bằng các hoạt động, hành vi tố tụng của các cơ quan có thẩm quyền. Nếu tuân thủ đúng, đầy đủ các thủ tục tố tụng luật định thì việc xác định đúng đắn sự kiện thực tế để đánh giá dưới góc độ pháp lý, làm cơ sở ra bản án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật là cao. Số lượng kháng nghị tái thẩm ít là tất yếu.
Ngoài lý giải trên về số lượng kháng nghị tái thẩm ít có thể còn do khả năng phát hiện sai lầm trong các bản án, quyết định có HLPL chưa tốt, chưa triệt để, có thể có sai lầm nhưng không được phát hiện nhanh chóng, kịp thời. Báo cáo tổng kết công tác ngành TAND năm 2009 đánh giá: “Trong số các vụ án hình sự được xét xử trong năm 2009 chưa phát hiện có trường hợp nào kết án oan người không có tội và phải bồi thường theo Nghị quyết số 388 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Có một số trường hợp oan sai và phải bồi thường theo Nghị quyết 388 được phát hiện trong năm 2009 là những vụ án được xét xử trong những năm trước đây, cá biệt có vụ án cách đây trên 10 năm”. Như vậy, có những vụ án làm oan sai người không có tội mà phải vài năm sau hoặc thậm chí trên mười năm mới xác định có sai lầm, mới và điển hình nhất là vụ án Nguyễn Thanh Chấn tại Bắc Giang. Tại bản án hình sự sơ thẩm số 45/HSST ngày 26/3/2004 của TAND tỉnh Bắc Giang và bản án hình sự phúc thẩm số 1241/HSPT ngày 27/7/2004 của Toà phúc thẩm TANDTC tại Hà Nội đều kết tội bị cáo Nguyễn Thanh Chấn sinh năm 1961 đăng ký hộ khẩu thường tại thôn Me, xã Nghĩa Trung, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang phạm tội “giết người” (người bị hại là Nguyễn Thị Hoan). Nhưng phải đến 10 năm sau khi bản án có HLPL, ngày 04/11/2013 Viện trưởng VKSNDTC mới ký quyết định kháng nghị tái thẩm số 01/QĐ-VKSTC-V3 kháng nghị bản án phúc thẩm tuyên tội giết người đối với Nguyễn Thanh Chấn do có tình tiết mới là ngày 25/10/2013 Lý Nguyễn Chung