Bảo Vệ Giá Trị Trong Nước Của Đồng Tiền (Bằng Cách Ổn Định Giá Cả Hàng Hóa)

Ở Việt Nam, việc dùng séc trong dân cư ít thông dụng, dùng tiền mặt chi trả là phổ biến. Cho nên, có một khối tiền mặt rất lớn lưu thông bên ngoài hệ thống ngân hàng, vượt tầm kiểm soát của ngân hàng trung ương. Đó là đầu mối gây bất ổn rất lớn cho nền kinh tế. Đó cũng là lý do cần phải thu hút lượng tiền trong tay dân cư vào hệ thống ngân hàng dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn và dùng séc để thanh toán, một yếu tố cần thiết cho việc thực thi chính sách tiền tệ được hiệu quả.

3.2.1.3. Bảo vệ giá trị trong nước của đồng tiền (bằng cách ổn định giá cả hàng hóa)

Giá trị trong nước của đồng tiền là sức mua của nó đối với hàng hóa, dịch vụ trong nước. Sức mua của đồng tiền biến đối ngược chiều với giá cả hàng hóa. Khi giá cả chung tăng, sức mua của đồng tiền giảm và ngược lại, khi giá cả chung giảm, sức mua của đồng tiền tăng.

Sức mua của đồng tiền tăng khi mức giá cả chung giảm chỉ tích cực khi nguyên nhân là do năng suất chung tăng lên. Trong trường hợp này, người sản xuất tuy bán bới giá thấp hơn nhưng vẫn có lợi vì nhờ năng suất tăng, giá thành mỗi đơn vị sản phẩm vẫn thấp hơn giá bán. Do có lợi nên nhà sản xuất tiếp tục sản xuất, người lao động không những duy trì được việc làm mà còn có thẻ tăng thu nhập do năng suất lao động tăng lên.

Trái lại, nếu mức giá chung giảm không do năng suất mà do tổng cầu giảm thì là một biểu hiện không tích cực. Giá cả giảm, sức mua đồng tiền tuy có tăng nhưng đó chỉ là tăng nhất thời vì người sản xuất có thể rơi vào tình trạng thua lỗ. Họ có thể xem xét lại kế hoạch sản xuất, có thể sẽ giảm số lượng lao động, hạ thấp sản lượng nếu tình trạng hạ giá, hàng hóa tồn đọng kéo dài. Tình hình đó nếu lan rộng thì thấp nghiệp sẽ trầm trọng, làm giảm cầu của thị trường và làm cho kinh tế suy thoái thêm.

Do chính sách tiền tệ nhằm đảm bảo mức giá chung ổn định để mọi người được an tâm, tin tưởng trong việc tính toán công việc đầu tư vì đầu tư thường có thời hạn lâu dài. Vì vậy, cần có sự ổn định lâu dài mới khuyến khích được sự gia tăng đầu tư.

Trong trường hợp không duy trì được sự ổn định, sự gia tăng mức giá chung hàng năm ở mức 2 – 3% là mức gia tăng thuận lợi cho sự phát triển mà chính sách tiền tệ có thể chấp nhận được. Tuy nhiên, chính sách tiền tệ có thể tác động tới sự gia tăng năng suất trong hoạt động sản xuất của các chủ thể kinh tế là điều đáng quan tâm nhất.

3.2.1.4. Ổn định giá trị quốc tế của đồng tiền

Giá trị quốc tế của đồng tiền được đo lường bởi tỷ giá hối đoái thả nổi. Một số biến động của tỷ giá hối đoái ít hay nhiều ảnh hưởng tới hoạt động kinh tế trong nước tùy theo mức độ hướng ngoại của nền kinh tế. Trái lại, mọi biến chuyển về tiền tệ cũng tác động tới mối tương quan giữa tiền tệ trong nước và tiền tệ nước ngoài.

Tỷ giá hối đoái chịu sự tác động mạnh của lượng dự trữ ngoại hối, thị trường và chính sách hối đoái, tình hình giá cả trong nước. Do đó, một chính sách tiền tệ nhằm ổn định kinh tế trong nước cần phải đi đôi với những biện pháp nhằm ổn định tỷ giá hối đoái.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 209 trang tài liệu này.

3.2.2. Mục tiêu kinh tế

Chính sách tiền tệ còn nhằm đến mục đích cao hơn, đó là các mục tiêu kinh tế, gồm hai mục tiêu chính sau:

Tài chính tiền tệ - 22

+ Tăng trưởng kinh tế

+ Giảm thiểu những tác động của chu kỳ kinh doanh (Ổn định kinh tế)

3.2.2.1. Mục tiêu tăng trưởng kinh tế

Hiện nay, còn có những quan điểm khác nhau về vai trò tác động của tiền tệ đối với tăng trưởng kinh tế. Đó là sự khác biệt và xác định sự tác động của lãi suất đến tổng cầu trong nền kinh tế, từ đó tác động đến tăng trưởng kinh tế. Tác động đó được thực hiện thông qua hai cách: Khi lượng cung tiền tăng, nó có tác động làm giảm lãi suất, lãi suất giảm khuyến khích đầu tư. Sự gia tăng đầu tư sẽ làm cho tổng sản phẩm xã hội tăng lên. Nếu tỷ lệ gia tăng của tổng sản phẩm xã hội lớn hơn sự gia tăng của dân số thì sẽ có tăng trưởng kinh tế. Mặt khác, sự gia tăng lượng cung tiền sẽ có tác dụng làm tăng tổng chi tiêu: các thành phần dân cư có nhiều tiền hơn, sẽ tiêu dùng nhiều hơn giúp thị trường giải quyết được hàng hóa tồn đọng, doanh nghiệp gia tăng sản xuất, hàng hóa lưu thông, phân phối nhanh chóng hơn. Đến một lúc nào đó, doanh nghiệp phải mua thêm máy móc, thiết bị,… Cả hai sức cầu về sản phẩm tiêu dùng và sản phẩm đầu tư đều tăng, từ đó làm tăng tổng sản phẩm xã hội. Mếu mức tăng đó lớn hơn sự gia tăng dân số thì sẽ tăng trưởng kinh tế.

Trong cả hai trường hợp đều có sự gia tăng của lao động. Ta có thể thấy lao động, tư bản, kỹ thuật công nghệ là 3 yếu tố quan trọng quyết định sản lượng, trong đó yếu tố lao động được tăng lên trước khi doanh nghiệp gia tăng sản xuất. Đối với doanh nghiệp quản lý có hiệu quả, việc tuyển thêm lao động chỉ xảy ra khi số lao động hiện hữu được tận dụng. Như vậy, muốn đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế, ngoài việc gia tăng lượng cung tiền trong chính sách tiền tệ, cần có những biện pháp đẩy mạnh đầu tư sản xuất để tăng cường sử dụng lao động, giảm bớt lượng thất nghiệp.

3.2.2.2. Giảm thiểu những tác động của chu kỳ kinh doanh (Ổn định kinh tế)

Sự tăng trưởng kinh tế của bất kỳ quốc gia nào cũng không thể kéo dài mãi với thời gian. Lý do cơ bản là tổng cầu dù tiếp tục gia tăng nhưng tổng cung không thể đáp ứng mãi được. Nó bị hạn chế bởi nhiều yếu tố, đáng kể trước tiên là lao động. Khi nền kinh tế tăng trưởng liên tục, lao động khan hiếm làm hạn chế mức gia tăng sản xuất.

Đó là chưa kể nguyên vật liệu cũng có thể khan hiếm. Sự khan hiếm của lao động, nguyên vật liệu làm tăng chi phí sản xuất, nâng cao giá thành và giá bán trên thị trường. Vào thời điểm này, nếu lượng cung tiền tiếp tục gia tăng mà không kiềm chế, tổng cầu tăng mạnh, hậu quả tất yếu sẽ làm giá cả tăng lên và gây ra lạm phát. Tình hình đó buộc phải giảm bớt lượng cung tiền, từ đó làm giảm tổng cầu, giảm xu hướng tiêu dùng của đân cư. Hoạt động kinh tế rơi vào tình trạng ngưng trệ.

Khi nền kinh tế rơi vào tình trạng đó, các doanh nghiệp sản xuất hàng hóa bán chậm lại, hàng tồn kho tích lũy ngày càng nhiều, tất yếu sẽ dẫn đến phản ứng giảm bớt sản xuất. Trong trường hợp tiêu cực hơn nữa, họ sẽ sa thải bớt lao động. Lao động thất nghiệp, thu nhập giảm, tiêu dùng giảm kéo theo sự giảm sút trong sản lượng, nền kinh tế rơi vào suy thoái.

Để chặn đứng đà suy thoái, ngân hàng trung ương sẽ phải thi hành chính sách tiền tệ mở rộng, tăng lượng cung tiền, khuyến khích các ngân hàng cho vay để nâng số cầu lên, giúp các doanh nghiệp sản xuất có cái nhìn lạc quan hơn vào thị trường. Lao động thất nghiệp nhiều và lâu ngày nên giá lao động sẽ rẻ, hàng tồn kho giảm dần, nhu cầu tái sản xuất theo một nhịp độ lớn dần khiến cho nhu cầu đầu tư tăng lên. Nền kinh tế đi từ giai đoạn suy thoái sang giai đoạn phục hồi. Lúc này, tiền được rót thêm vào nền kinh tế kích thích tiêu dùng tăng mạnh kéo theo sự gia tăng trong đầu tư, trước hết là thay thế máy móc hư hỏng rồi dần dần đổi mới hệ thống sản xuất. Từ đó, nền kinh tế chuyển từ giai đoạn phục hồi sang giai đoạn tăng trưởng mạnh.

Trong mỗi giai đoạn kinh tế, chính sách tiền tệ đóng vai trò quan trọng, góp phần rút ngắn thời gian ngưng trệ và suy thoái kinh tế để chuyển sang giai đoạn tăng trưởng kinh tế, nhất là làm sao duy trì một mức độ tăng trưởng với lạm phát ở tỷ lệ chấp nhận được, có thể là ở một con số, hay tổng quát hơn, tỷ lệ lạm phát thấp với tỷ lệ thất nghiệp thấp.

Mục tiêu của chính sách tiền tệ thay đổi theo thời gian phù hợp với trình độ hiểu biết ngày càng cao hơn về mối tương quan giữa tiền tệ và nền kinh tế. Trước đây, người ta áp dụng luận điểm của kinh tế học cổ điển, cho rằng những thay đổi về tiền tệ chỉ tác động đến giá cả và tiền lương, chứ không ảnh hưởng đến việc làm và chu kỳ phát triển kinh tế. Khi đó, chính sách tiền tệ chưa được coi là công cụ quan trọng để ổn định kinh tế và không có tác động đến quá trình tăng trưởng, cơ chế vận hành chủ yếu bao gồm các yếu tố: mức lãi suất thực âm cao và có độ bất định lớn. Nó có xu hướng làm xói mòn nguồn vốn, trong thực tế, kết quả thu được đi ngược lại ý đồ ban đầu được dành cho nó: thay vì mức tiết kiệm và năng lực đầu tư nội địa được nâng lên là tình trạng thâm hụt ngân sách, khối lượng nợ nước ngoài và phần của cải đất nước sản xuất ra nhưng phải dành cho trả nợ và lãi ngày càng lớn. Hậu quả không tránh khỏi sau đó là lạm phát cao, bất ổn định và trì trệ, suy thoái kinh tế.

Kể từ cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 – 1933, chính sách tiền tệ mới trở thành khái niệm trung tâm trong hoạt động quản lý và điều tiết kinh tế vĩ mô, được coi là công cụ quan trọng để ổn định kinh tế và tác động đến quá trình tăng trưởng, hướng tới mục tiêu phát triển môi trường tài chính, kích thích tối đa sự vận động của các nguồn lực khác của đất nước. Chính sách tiền tệ này được gọi là chính sách tiền tệ mở rộng, có cơ chế vận hành bao gồm các yếu tố chính: duy trì mức lãi suất thực dương, quy định mức dự trữ bắt buộc thấp đối với các ngân hàng thương mại

Ngày nay, do những đối nghịch của các mục tiêu trên, các ngân hàng trung ương khó có thể thực hiện ngay được mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ. Thông thường, trong một thời kỳ xác định, việc thực hiện mục tiêu này sẽ cản trở việc đạt kết quả cao ở mục tiêu khác trong hệ mục tiêu đã nêu. Muốn có lạm phát thấp thì khó có thể tăng trưởng cao. Duy trì tỷ giá hối đoái cố định thì dễ rơi vào tình trạng “nhập khẩu lạm phát”. Do đó, ngân hàng trung ương phải xác định những mục tiêu đặc thù hay trung gian, từ đó phải có sự phối hợp giữa các mục tiêu ngắn hạn và dài hạn trong quá trình thực hiện chính sách tiền tệ thực tế.

Với vị trí là một công cụ thuộc Nhà nước, chính sách tiền tệ có hai đặc điểm nổi bật về mặt chức năng là:

- Phù hợp với chức năng can thiệp chung của Nhà nước đối với mọi hoạt động của nền kinh tế. Đó là điều chỉnh lại sự phân bố nguồn lực, điều chỉnh lại sự phân phối thu nhập và của cải trong xã hội và ổn định lại tình hình kinh tế vĩ mô.

- Chính sách tiền tệ là loại công cụ của chính sách can thiệp bằng kinh tế, dựa trên bản thân cơ chế thị trường và các quy luật vận động của nó.

Có thể xem chức năng chung có tính chất nguyên lý của chính sách tiền tệ như một mô hình chính sách cơ bản, còn những biến thể của nó thì như những mô hình chính sách đặc thù. Tuy dựa trên nền tảng của kinh tế thị trường nên đương nhiên, nguyên tắc chung về điều chỉnh kinh tế của các nhà nước pháp quyền thống nhất ở chỗ được thể chế hóa bằng hệ thống pháp luật chặt chẽ, song các mô hình chính sách đặc thù luôn mang đậm dấu ấn của những điều kiện kinh tế, xã hội, truyền thống văn hóa và bản sắc dân tộc cũng như thiết chế và năng lực thực tiễn của Nhà nước ở mỗi quốc gia. Đồng thời, nó phản ánh rò những mâu thuẫn, những vấn đề nổi lên cần được tập trung giải quyết của nỗi nền kinh tế trong mỗi thời kỳ nhất định. Phạm vi và thức tự ưu tiên của các mục tiêu cụ thể cần đạt tới của mỗi quốc gia, mỗi thời kỳ được xác định một cách không giống nhau. Do đó, một điều rất tự nhiên là mỗi nước trong lịch sử có một chính sách tiền tệ riêng của mình. Các mô hình chính sách cụ thể cho thấy sự phong phú của các sắc thái riêng biệt trong cơ chế vận hành của chính sách tiền tệ trong nền kinh tế thị trường hiện đại.

Vì mỗi giai đoạn phát triển ở mỗi quốc gia có những mục tiêu kinh tế - xã hội không giống nhau nên các chính sách tiền tệ luôn bao hàm trong đó những nét đặc thù. Do vậy, chúng được biểu hiện dưới nhiều hình thức đa dạng, phong phú, phù hợp với mỗi mô hình điều chỉnh kinh tế đặc thù. Điều này góp phần làm phong phú thêm lý luận kinh tế học hiện đại và cung cấp ngày càng nhiều hơn những bài học kinh nghiệm từ thực tế cho việc nghiên cứu, học hỏi và lựa chọn để xây dựng chính sách tiền tệ phù hợp với những điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia.

Từ nhiều thập kỷ nay và nhất là từ cuộc chiến tranh thế giới thứ hai, chính sách tiền tệ của nhiều nước có nền kinh tế phát triển luôn nhằm mục tiêu chủ yếu là đấu tranh chống lại lạm phát nhưng đồng thời không được làm ảnh hưởng đến nền sản xuất trong nước và tạo đầy đủ công ăn việc làm. Căn cứ vào những mục tiêu cơ bản này, các nước đó lựa chọn các công cụ can thiệp cần thiết, các công cụ này chủ yếu tác động vào nguồn đối ứng của lượng cung tiền tệ, vì đó là nguồn tạo ra tiền, nhưng chúng còn có tác dụng phụ là nhằm định hướng việc sử dụng đồng tiền đã được tạo ra đối với các chủ thể kinh tế.

BÀI ĐỌC THÊM


CÁC CÔNG CỤ CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ

1. Thay đổi dự trữ bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng

Tổ chức tín dụng (TCTD) bao gồm nhiều loại tổ chức mà quan trọng hàng đầu là ngân hàng thương mại (NHTM). NHTM là ngân hàng thực hiện nhiều nghiệp vụ trung gian về tài chính hơn hết trong số các trung gian tài chính. Chính vì vai trò quan trọng của NHTM nên ngân hàng trung ương (NHTW) của hầu hết các nước được luật pháp cho phép có rất nhiều thẩm quyền đối với NHTM. Điều đó nhằm mục đích thực thi chính sách tiền tệ, giữ vững hệ thống ngân hàng hoạt động lành mạnh, đảm bảo quyền lợi của các doanh nghiệp và dân chúng, đồng thời tạo thuận lợi cho NHTM hoạt động hữu hiệu góp phần phát triển kinh tế đất nước.

Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là công cụ quan trọng nhất của NHTW. Việc quy định tỷ lệ này làm tăng khả năng điều tiết của NHTW đối với các NHTM. Tuy nhiên, các công cụ lãi suất của NHTW càng phát triển bao nhiêu thì công cụ dữ trữ bắt buộc càng ít quan trọng bấy nhiêu. Ngược lại, chừng nào trong nền kinh tế chưa có thị trường chứng khoán, nghiệp vụ hối phiếu cũng như các công cụ kỹ thuật tài chính, tức là những công cụ có thể phản ứng nhanh trước sự biến động của lãi suất, thì tỷ lệ dự trữ bắt buộc vẫn còn là công cụ quan trọng nhất của NHTW.

Đối với NHTM hiện đại, tức là tạo ra những công cụ thanh toán qua ngân hàng thay cơ sở tiền tệ, nếu mà NHTW không sử dụng công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì không thể khống chế được khối tín dụng bằng biện pháp kinh tế.

Về nguyên tắc, khi ấn định một tỷ lệ dự trữ bắt buộc ở mức thấp, NHTW muốn khuyến khích các NHTM mở rộng mức cho vay của họ, tức là muốn mở rộng lượng cung tiền. Ngược lại, khi nâng cao mức dự trữ bắt buộc, NHTW giới hạn khả năng cho vay của NHTM, báo hiệu một chính sách tiền tệ thắt chặt hay giảm lượng cung tiền, từ đó tác động tới doanh thu và lợi nhuận của ngân hàng. Chính vì vậy, một sự gia tăng dự trữ bắt buộc đòi hỏi phải nghiên cứu trước sức chịu đựng của NHTM đối với mức dự trữ mới sẽ ban hành. Để cho ngân hàng không bị lỗ và cộng tác trong việc thực thi chính sách tiền tệ, NHTW có thể trả lãi cho mức dự trữ tăng thêm nào đó của NHTM, kèm theo một chính sách lãi suất thích hợp. NHTW có thể vận dụng mức dự trữ bắt buộc, chẳng hạn mức dự trữ bắt buộc cho loại tiền gửi không kỳ hạn và mức dự trữ bắt buộc thấp hơn cho loại tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi có kỳ hạn. Cũng có thể áp dụng một tỷ lệ dự trữ bắt buộc thấp hơn cho ngân hàng hoạt động ở nông thôn…Biện pháp thay đổi dự trữ bắt buộc cần thực hiện một cách thận trọng và muốn có hiệu quả, cần phải đi kèm với những biện pháp khác.

Nhìn chung, dự trữ bắt buộc là công cụ mang tính chất hành chính của NHTW nhằm điều tiết lượng cung tiền tệ của NHTM cho nền kinh tế thông qua số nhân tiền. Mức dự trữ bắt buộc do pháp luật quy định. Đó là một tỷ lệ nhất định số tiền gửi của khách hàng mà NHTM thu được phải gửi vào một tài khoản ở NHTW. Dự trữ bắt buộc là biện pháp kiểm soát lượng tiền cung ứng chứ không phải là cách để cho đồng tiền ổn định. Nó có ý nghĩa to lớn để điều hòa cung cầu trên thị trường tiền tệ, thực hiện yêu cầu của chính sách tiền tệ.

2. Biện pháp chiết khấu, tái chiết khấu

Đứng về phương diện hoạt động, NHTW là “ngân hàng của các ngân hàng”. Với vai trò này, có thể nói NHTW là vị cứu tinh của các TCTD, nhất là NHTM. Nếu trong một nước không có NHTW, nghề làm ngân hàng sẽ rất nguy hiểm vì dễ rơi vào tình trạng mất khả năng chi trả mà ở sau lưng ngân hàng không có chỗ dựa, không có người cho vay sau cùng.

NHTW cấp tín dụng cho tổ chức tài chính qua nhiều hình thức. Hình thức thông dụng nhất và lâu đời nhất là chiết khấu thương phiếu của TCTD (hoặc tái chiết khấu nếu TCTD đã chiết khấu thương phiếu trước đó). Hình thức thứ hai là thế chấp hay ứng trước. Khi nhận chiết khấu (hoặc tái chiết khấu), NHTW là tăng lượng tiền cơ sở. Đó làm hình thức phát hành tiền được các nhà kinh tế xem là lành mạnh vì nó có khả năng tự thanh toán do thương phiếu là loại giấy tờ ghi nhận món nợ về thương mại xuất phát từ việc lưu thông, phân phối hàng hóa và nhờ có lưu thông, phân phối hàng hóa, việc sản xuất trở nên thuận lợi hơn.

Với việc nâng cao hoặc giảm mức lãi suất chiết khấu, NHTW có thể tăng hoặc giảm mức cung ứng tín dụng của NHTM đối với nền kinh tế, từ đó tác động tới lượng cung tiền. Chúng ta hãy xem xét vấn đề này chi tiết hơn. Bằng nghiệp vụ chiết khấu, NHTW muốn mở rộng hay thu hẹp lượng cung tiền thông qua việc áp dụng lãi suất chiết khấu trong việc khuyến khích hay hạn chế các TCTD đối với việc đi vay ở NHTW. Nếu chính sách là khuyến khích, NHTW hạ thấp lãi suất chiết khấu. Các TCTD trong trường hợp này đi vay rẻ nên có xu hướng cho vay nhiều hơn với lãi suất cho vay giảm. Ngược lại, khi muốn hạn chế lượng cung tiền, NHTW nâng lãi suất chiết khấu, gián tiếp áp lực các NHTM nâng cao lãi suất cho vay và hạn chế những cơ hội cho vay.

Chính sách chiết khấu, tái chiết khấu còn là công cụ định hướng tín dụng. Trong nhiều trường hợp, NHTW có thể đặt ra những điều kiện thuận lợi hay chặt chẽ cho từng loại tín dụng của các TCTD để được chiết khấu hay tái chiết khấu ở NHTW như: chiết khấu để giúp TCTD điều chỉnh dự trữ bắt buộc bị thiếu hụt vì có sự rút tiền gửi đột ngột và quá lớn; chiết khẩu để giúp TCTD thực hiện tín dụng từng mùa, nhất là những TCTD ở vùng trọng điểm nông nghiệp; chiết khấu nhằm giúp ngân hàng nào thiếu hụt thanh khoản vì những nghiệp vụ cho vay tương đối dài hạn để khuyến khích phát triển.

Chiết khấu, tái chiết khấu cho phép NHTW giữ vai trò chủ động trong hành động của nó vì mục tiêu phát hành nhưng không phải lúc nào NHTW cũng chủ động được vì có nhiều trường hợp, cho vay chiết khấu của nó là thụ động vì phải “chữa cháy” cho những khó khăn khẩn cấp của các TCTD.

Tóm lại, biện pháp chiết khấu, tái chiết khấu là những điều kiện mà NHTW mua các thương phiếu của các TCTD nhằm điều chỉnh mức cung ứng tín dụng của TCTD đối với nền kinh tế, đồng thời qua đó điều chỉnh lượng tiền cung ứng.

So với việc phát hành tiền cho Chính phủ, việc phát hành dựa trên thương phiếu tương đối đảm bảo cho số tiền phát hành có tính thanh khoản cao, vì nó giúp lưu động hóa một khối lượng hàng hóa, dịch vụ, làm cơ sở cho sức mua của tiền tệ được vững chắc.

3. Nghiệp vụ thị trường mở

Trước kia, các nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu của Ngân hàng trung ương chiếm một vị trí quan trọng đặc biệt trong việc thực thi chính sách tiền tệ. Về sau, người ta thấy rò mặt hạn chế của nghiệp vụ này. Đó là, NHTW muốn tăng lượng cung tiền phải đợi TCTD có nhu cầu đi vay lại ở NHTW. Mà TCTD về sau này, một là không muốn đi vay ở NHTW vì những điều kiện và thủ tục của nó, hai là có thể họ không có nhu cầu đi vay.

Với nghiệp vụ thị trường mở, TCTD có thể tìm cho mình nguồn tài trợ cần thiết với những thủ tục nhanh gọn nên hoạt động của thị trường mở ngày càng quan trọng hơn, giảm bớt hoạt động tái chiết khấu. Qua thị trường này, NHTW có thể tác động đến việc tăng giảm lượng cung tiền một cách trực tiếp đối với TCTD.

Nghiệp vụ thị trường mở là việc NHTW mua bán giấy tờ có giá với mục đích tác động tới thị trường tiền tệ, điều hòa cung cầu về giấy tờ có giá, gây ảnh hưởng tới lượng dự trữ của các TCTD tại NHTW, từ đó tác động đến khả năng cung cấp tín dụng của các tổ chức này.

Trên thị trường mở, NHTW chủ yếu mua bán Trái phiếu Chính phủ (TPCP). Bằng cách mua TPCP, NHTW tăng lượng dự trữ của TCTD vì tổ chức này cần dự trữ nên đem bán trái phiếu với lãi suất thấp để lấy tiền cho vay sinh lợi nhiều hơn. Khi dự trữ của TCTD thặng dư, TCTD có thể mở rộng khả năng cho vay gấp nhiều lần tùy theo tỷ lệ dự trữ bắt buộc vì phần dự trữ tăng thêm có tác dụng như phần tiền gửi ở TCTD này. Thêm vào đó, việc NHTW mua TPCP với giá cao hơn và lãi suất giảm xuống kích thích các doanh nghiệp đi vay, tức là một cách làm tăng lượng cung tiền.

Ngược lại, khi muốn giảm lượng cung tiền, NHTW bán TPCP trên thị trường mở cho bất kỳ ai muốn mua: cá nhân, doanh nghiệp (cá nhân hay doanh nghiệp mua hay bán đều thông qua tài khoản của ngân hàng). Hậu quả là dự trữ của TCTD tại NHTW giảm xuống, khả năng cho vay của TCTD bị thu hẹp, nhất là khi tiền mua TPCP do cá nhân hay doanh nghiệp mua, làm giảm lượng cung tiền.

Xem tất cả 209 trang.

Ngày đăng: 16/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí