xuất, nên những tài sản thuộc loại này chịu sự lệ thuộc khá nhiều vào những dao động mang tính thời vụ và chu kỳ trong kinh doanh.
Một đặc điểm quan trọng của tài sản lưu động là lợi nhuận đầu tư vào những tài sản này là lợi nhuận gián tiếp. Bởi vậy, lợi nhuận do sử dụng tài sản lưu động phải được đánh giá dựa trên cơ sở sự tác động chung mà những tài sản này đã phát huy tác dụng trong chức năng sản xuất và marketing.
Một chức năng trọng yếu của tài sản lưu động là nhằm tạo cho doanh nghiệp khả năng thanh khoản cần thiết để duy trì khả năng thanh toán trong cả những giai đoạn suy thoái kinh tế. Do mức độ và thành phần của tài sản lưu động và nợ ngắn hạn chịu sự chi phối của những tình trạng khó khăn có thể xảy ra và mức độ khắc nghiệt do môi trường kinh doanh đem lại. Hơn thế nữa, quản trị tài sản lưu động và nợ ngắn hạn gắn liền nhau. Chẳng hạn, thời gian đáo hạn trung bình của các khoản nợ ngắn hạn dài hơn thì nhu cầu đối với những tài sản có tính thanh khoản cao thường ít hơn so với khi thời gian đáo hạn trung bình của các khoản nợ ngắn hạn hơn. Tương tự như vậy, khi số lượng ngày thu tiền trung bình của các khoản tín dụng thương mại nhiều hơn thì nhu cầu cân đối tiền mặt đòi hỏi phải lớn hơn...
6.1.2.1. Quản lý tiền mặt
Tiền mặt có hai dạng đó là tiền gửi trên tài khoản thanh toán ở ngân hàng và tiền mặt tại quỹ của doanh nghiệp. Doanh nghiệp luôn phải duy trì một mức tiền mặt nhất định để có thể trả lương, mua nguyên vật liệu, mua tài sản cố định, trả thuế, trả nợ và trả cổ tức… Tuy nhiên, tiền mặt bản thân nó không có khả năng sinh lợi. Vì thế mục tiêu của nhà quản trị tiền mặt là tối thiểu hóa lượng tiền mặt mà họ nắm giữ.
a. Các lý do phải nắm giữ tiền mặt
Các doanh nghiệp thường nắm giữ tài khoản tiền mặt bao gồm tài khoản giao dịch, dự phòng và đầu cơ. Tuy nhiên, không thể xác định chi tiết cho từng khoản mục và tổng hợp lại để xây dựng thành một tài khoản tiền mặt hợp lý sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau. Các nhà quản trị tài chính cần xem xét các lý do nắm giữ tiền mặt để xây dựng tài khoản tiền mặt mục tiêu. Các nguyên nhân doanh nghiệp phải nắm giữ tiền mặt là:
- Đảm bảo thực hiện các giao dịch: đáp ứng các nhu cầu giao dịch hàng ngày như chi trả tiền mua hàng, tiền lương, thuế, cổ tức... trong quá trình hoạt động bình thường của doanh nghiệp.
- Thực hiện hoạt động đầu cơ: nhằm sẵn sàng nắm bắt những cơ hội đầu tư thuận lợi trong kinh doanh như mua nguyên vật liệu dự trữ khi giá thị trường giảm hoặc khi tỷ giá biến động thuận lợi, mua chứng khoán đầu tư nhằm góp phần làm tăng lợi nhuận của doanh nghiệp.
- Dự phòng: nhằm duy trì khả năng đáp ứng nhu cầu chi tiêu khi có những biến cố bất ngờ xảy ra ảnh hưởng đến hoạt động thu chi bình thường của doanh nghiệp. Ví dụ: do ảnh hưởng của yếu tố thời vụ khiến doanh nghiệp phải chi tiêu nhiều hơn cho việc mua hàng dự trữ trong khi tiền thu bán hàng chưa thu hồi kịp.
Trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, việc gửi tiền mặt là cần thiết nhưng việc giữ đủ tiền mặt phục vụ cho kinh doanh có những lợi thế sau:
- Khi mua hàng hóa, dịch vụ nếu có đủ tiền mặt, doanh nghiệp có thể được hưởng chiết khấu.
- Giữ đủ tiền mặt, duy trì tốt các chỉ số thanh toán giúp doanh nghiệp có thể mua hàng với những điều kiện thuận lợi và được hưởng mức tín dụng rộng rãi.
- Giữ đủ tiền mặt giúp doanh nghiệp tận dụng được những cơ hội thuận lợi trong kinh doanh do chủ động trong các hoạt động thanh toán chi trả.
- Khi có đủ tiền mặt giúp doanh nghiệp đáp ứng được nhu cầu trong trường hợp khẩm cấp như: đình công, hỏa hoạn, vượt qua khó khăn do yếu tố thời vụ và chu kỳ kinh doanh.
b. Các kỹ thuật quản lý tiền mặt
- Đồng bộ hóa dòng tiền mặt.
Nếu bạn là một cá nhân nhận toàn bộ thu nhập mỗi năm một lần, bạn có thể gửi ở ngân hàng và định kỳ rút tiền khỏi tài khoản, và số dư bình quân trong cả năm của bạn bằng một nửa tổng thu nhập hàng năm. Bây giờ, thay vì nhận mỗi năm một lần, bạn nhận thu nhập mỗi tháng một lần, bạn cũng làm tương tự như thế, nhưng lúc này số dư bình quân của bạn sẽ thấp hơn nhiều. Nếu bạn có thể sắp xếp được thu nhập hàng ngày để trả tiền thuê nhà, học phí và những chi phí khác mỗi ngày, và nếu bạn chắc chắn về dòng nhập quỹ và xuất quỹ, bạn có thể duy trì một cân đối tiền mặt bình quân chặt chẽ.
Tình huống này cũng xảy ra tương tự với các công ty thông qua việc nâng cao chất lượng dự đoán và sắp xếp các hoạt động để các hóa đơn gắn đúng với nhu cầu tiền mặt, các công ty có thể duy trì các tài khoản giao dịch ở mức thấp nhất. Nhận thức được điều này, các công ty hoạt động trong lĩnh vực sản xuất hàng tiêu dùng, dầu mỏ, thẻ tín dụng... thường sắp xếp để ghi hóa đơn cho khách hàng, để thanh toán hóa đơn riêng của họ, trên cơ sở “các chu kỳ thanh toán” trong cả tháng. Việc đồng bộ hóa dòng ngân quỹ đảm bảo tiền mặt khi cần thiết và vì thế giúp công ty giảm tối thiểu tài khoản tiền mặt, giảm nợ ngân hàng, giảm chi phí vay và do đó tăng lợi nhuận.
- Giảm thời gian kiểm tra hóa đơn.
Khi khách hàng viết và gửi đến một tờ ngân phiếu, điều này không có nghĩa là công ty đã chính thức nhận được tiền ngay. Trên thực tế, công ty phải mất một khoản thời gian dài để thực hiện các hoạt động kiểm tra ngân phiếu và sử dụng tiền mặt.
Trước hết, khách hàng phải gửi ngân phiếu, hệ thống ngân hàng làm thủ tục chuyển sec và sau đó tiền mặt mới được đưa vào sử dụng. Đặc biệt, sec của các khách hàng ở xa thường bị trì hoãn do thời gian chuyển và có nhiều ngân hàng tham gia vào quá trình xử lý. Chẳng hạn tình huống công ty nhận sec và chuyển sec vào ngân hàng. Ngân hàng của công ty phải gửi tờ sec đến ngân hàng nơi mà tiền đã được rút ra. Chỉ khi ngân hàng cuối cùng này chuyển quỹ đến ngân hàng của công ty thì lúc đó họ mới có thể sử dụng ngân quỹ.
- Đẩy nhanh tốc độ thu tiền.
Hai kỹ thuật phổ biến nhất để đẩy nhanh tốc độ thu tiền:
+ Hệ thống tài khoản thu gom: hệ thống tài khoản thu gom là một trong nhưng công cụ quản trị tiền mặt lâu đời nhất. Trong hệ thống tài khoản thu gom, các tờ sec của khách hàng được gửi đến hộp thư đặt ở bưu điện của thành phố chứ không phải là trụ sở công ty. Chẳng hạn như công ty có trụ sở Hà Nội yêu cầu khách hàng ở Cần Thơ gửi sec thanh toán đến hộp thư ở Thành phố Hồ Chí Minh, khách hàng ở Huế thì gửi sec đến Đà Nẵng..., chứ không phải gửi tiền đến Hà Nội. Ngân hàng ở địa phương đó đến kiểm tra hộp thư nhiều lần trong ngày và chuyển tiền vào tài khoản của công ty ngay tại thành phố đó. Sau đó, ngân hàng báo cáo cho công ty những biên lai nhận được trong ngày, thông thường qua hệ thống chuyển dữ liệu điện tử vì hệ thống này cho phép cập nhật trực tuyến những báo cáo về khoản phải thu của công ty. Hệ thống tài khoản thu gom làm giảm thời gian nhận sec từ khách hàng, sau đó gửi, chuyển qua hệ thống ngân hàng để đưa quỹ vào sử dụng. Dịch vụ gom có thể làm tăng thời gian sử dụng ngân quỹ sớm hơn 2 đến 5 ngày so với hệ thống thông thường.
+ Thanh toán qua điện thoại hay ghi nợ tự động: các công ty ngày càng muốn được thanh toán các hóa đơn lớn qua điện thoại hoặc ghi nợ tự động. Với hệ thống ghi nợ điện tử, ngân quỹ tự động được trừ ra khỏi một tài khoản này và cộng vào tài khoản kia. Tất nhiên, sự tiến bộ trong hoạt động thu nợ tốc độ cao và công nghệ thông tin đang ngày càng làm cho quá trình này trở nên khả thi và hiệu quả hơn.
- Kế hoạch hóa và tập trung hóa việc chi tiêu
Các công ty thường trả hóa đơn đúng thời hạn chứ không nên trả trước hay sau ngày hẹn. Việc thanh toán trước sẽ làm giảm số dư tiền mặt bình quân trong khi trả muộn sẽ ảnh hưởng đến mức độ tín nhiệm của công ty hoặc bị mất cơ hội chiết khấu tiền mặt.
Tập trung hóa việc thanh toán từ các tài khoản chi tiêu được duy trì ở ngân hàng trung tâm giúp giảm thiểu lượng tiền mặt nhàn rỗi mà công ty giữ ở các văn phòng khu vực và ở các tài khoản ngân hàng chi nhánh. Nhiều công ty thiết lập hệ thống số dư bằng không, một tài khoản mẹ được thiết lập để nhận tất cả các khoản tiền gửi đến và đưa vào hệ thống số dư không. Khi sec được chuyển khoản qua các tài khoản số dư
không nơi mà sec được phát lệnh, tiền mặt được chuyển đến các tài khoản này từ tài khoản mẹ. Các tài khoản chi tiêu này được gọi là tài khoản số dư không vì khoản tiền mặt chính xác được chuyển vào đó hàng ngày để trang trải các khoản chi tiêu, làm cho tài khoản chỉ có số dư bằng không vào cuối ngày.
- Kéo dãn thời gian thanh toán các khoản nợ phải trả
Nhiều công ty thanh toán các khoản nợ phải trả trước khi đến hạn. Dĩ nhiên là không có lợi khi trả các khoản nợ trước khi đến hạn trừ khi nhà cung cấp thực hiện chiết khấu đối với các đơn hàng thanh toán sớm.
c. Chứng khoán thanh khoản cao
Trên thực tế, các nhà quản trị không bao giờ tách riêng quản trị tiền mặt ra khỏi chứng khoán có khả năng thanh khoản cao. Chứng khoán có khả năng thanh khoản cao có khả năng sinh lời thấp hơn nhiều so với các loại tài sản hoạt động. Thế tại sao các công ty vẫn duy trì một lượng lớn tài sản sinh lợi thấp như vậy?
Hầu như các công ty nắm giữ chứng khoán có khả năng thanh khoản cao vì có cùng những nguyên nhân với việc nắm giữ tiền mặt. Mặc dù chứng khoán có khả năng thanh khoản cao không hoàn toàn giống như tiền mặt nhưng chúng có thể được chuyển thành tiền mặt một cách dễ dàng chỉ bằng cách gọi điện đến trung tâm môi giới. Hơn nữa, trong khi tiền mặt và các loại tín phiếu thương mại không sinh lợi, chứng khoán có khả năng thanh khoản cao vẫn đem lại một mức lợi nhuận nhất định tuy không cao. Vì thế, rất nhiều công ty nắm giữ chứng khoán có khả năng thanh khoản cao thay vì tiền mặt, và họ sẽ chuyển chúng thành tiền mặt khi dòng xuất quỹ vượt quá dòng nhập quỹ. Trong những tình huống này, chứng khoán có khả năng thanh khoản cao có thể được sử dụng thay cho tài khoản giao dịch, tài khoản dự phòng, tài khoản đầu cơ hay cho cả ba loại tài khoản trên. Chứng khoán thường được lưu giữ vì mục tiêu dự phòng
- hầu hết các công ty muốn dựa vào tín dụng ngân hàng để tạo lập các giao dịch tạm thời hoặc để đáp ứng như cầu đầu cơ, nhưng họ vẫn có thể có những tài sản dễ chuyển nhượng cao để ngăn chặn tình trạng thiếu nguồn vốn tín dụng ngân hàng.
Tóm lại, nắm giữ tiền mặt và chứng khoán có khả năng thanh khoản cao đều có những lợi ích và chi phí của nó. Lợi ích là công ty giảm được chi phí giao dịch do không phải phát hành chứng khoán hoặc đi vay thường xuyên khi thiếu tiền mặt. Đồng thời họ luôn có sẵn tiền mặt để tận dụng được những hợp đồng giá rẻ hay những cơ hội phát triển bất thường. Bất lợi đầu tiên là lợi nhuận sau thuế của tiền mặt và chứng khoán ngắn hạn là rất thấp. Vì thế, công ty phải xem xét cẩn thận những lợi ích và chi phí khi nắm giữ chúng.
Những nghiên cứu gần đây cho thấy giả thuyết đánh đổi này giải thích lý do của việc giữ tiền mặt. Các công ty có cơ hội tăng trưởng cao thường mất mát nhiều nhất
nếu họ không có đủ tiền mặt để nhanh chóng nắm bắt cơ hội và dữ liệu cũng cho thấy rằng những công ty này đã không duy trì tiền mặt và chứng khoán có khả năng thanh khoản cao ở mức cần thiết. Những công ty có dòng ngân quỹ biến động là những công ty có khả năng hết tiền mặt nhanh nhất, vì thế họ luôn duy trì tiền mặt ở mức cao. Ngược lại, với các công ty lớn có mức độ tín dụng tín nhiệm cao thì việc nắm giữ tiền mặt ít quan trọng hơn vì họ có thể nhanh chóng thâm nhập vào thị trường vốn với chi phí thấp. Và vì thế, họ duy trì một mức tiền mặt tương đối thấp hơn. Nhìn chung, những công ty có cơ hội tăng trưởng cao vẫn là những công ty có tài khoản tiền mặt cao nhất.
6.1.2.2. Quản lý khoản phải thu
a. Chính sách tín dụng thương mại
Để thắng lợi trong cạnh tranh trên thị trường, các doanh nghiệp có thể sử dụng chiến lược về sản phẩm, quảng cáo, giá cả, dịch vụ giao hàng và các dịch vụ sau khi mua bán như vận chuyển, lắp đặt... Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường, việc mua bán chịu là một việc không thể thiếu. Tín dụng thương mại có thể làm cho doanh nghiệp đứng vững trên thị trường nhưng cũng có thể đem đến những rủi ro cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Điều này được thể hiện như sau:
- Tín dụng thương mại tác động đến doanh thu bán hàng: do được trả chậm nên có nhiều người mua hàng hóa của doanh nghiệp hơn và làm cho doanh thu tăng lên. Bên cạnh đó, khi cấp tín dụng thương mại cho khách hàng thì doanh nghiệp bị chậm trễ trong việc trả tiền và vì tiền có giá trị theo thời gian nên doanh nghiệp có thể sẽ quy định giá cao hơn.
- Tín dụng thương mại làm giảm chi phí tồn kho của hàng hóa.
- Tính dụng thương mại làm cho tài sản cố định được sử dụng có hiệu quả hơn và hạn chế được phần nào về hao mòn vô hình.
- Khi cấp tín dụng thương mại cho khách hàng có thể làm tăng chi phí trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp: tăng chi phí đòi nợ, chi phí trả cho nguồn tài trợ để bù đắp sự thiếu hụt ngân quỹ. Thời hạn cấp tín dụng càng dài thì chi phí càng lớn.
- Xác suất không trả tiền của người mua làm cho lợi nhuận bị giảm, thời hạn cấp tín dụng càng dài thì rủi ro càng lớn.
Với những tác động nêu trên buộc nhà quản lý phải so sánh giữa thu nhập và chi phí tăng thêm để quyết định có nên cấp tín dụng thương mại không và các điều khoản trong đó như thế nào cho phù hợp.
Chính sách tín dụng thương mại bao gồm bốn yếu tố sau:
- Tiêu chuẩn tín dụng liên quan đến sức mạnh tài chính cần thiết để khách hàng tín dụng có thể được chấp nhận mua tín dụng.
- Thời hạn tín dụng là thời gian mà người mua được trì hoãn thanh toán, nghĩa là từ lúc ghi hóa đơn đến thời hạn cuối cùng họ phải thanh toán.
- Chiết khấu nhờ trả sớm tỷ lệ phần trăm giảm giá và thời hạn trả trước để được nhận chiết khấu tiền mặt.
- Chính sách thu hồi nợ được đo lường bởi mức độ chặt chẽ hay lỏng lẻo của doanh nghiệp trong nỗ lực thu hồi các hợp đồng trả chậm.
Nhà quản trị tín dụng có trách nhiệm quản lý chính sách tín dụng thương mại của doanh nghiệp. Tuy nhiên, do tầm quan trọng của chính sách này mà thông thường chính hội đồng quản trị sẽ quyết định và thiết lập chính sách tín dụng thương mại.
b. Đánh giá những thay đổi trong chính sách tín dụng thương mại
b1.Tiêu chuẩn tín dụng
Tiêu chuẩn tín dụng là những yếu tố liên quan đến sức mạnh tài chính và mức độ tín nhiệm tín dụng mà mỗi khách hàng phải đảm bảo để có quyền hưởng mức tín dụng mà công ty cấp cho. Nếu một khách hàng không đáp ứng được yêu cầu với kỳ hạn tín dụng thông thường, họ vẫn có thể mua hàng của công ty nhưng với kỳ hạn khắt khe hơn. Chẳng hạn, kỳ hạn bình thường của công ty cho phép thanh toán sau 30 ngày và kỳ hạn này được áp dụng cho tất cả các khách hàng có chất lượng tín dụng cao. Tiêu chuẩn tín dụng của công ty được dùng để xác định những khách hàng nào đảm bảo tiêu chuẩn tín dụng thông thường và mức độ tín dụng mà mỗi khách hàng có thể được hưởng.
Việc thiết lập tiêu chuẩn tín dụng là để đo lường chất lượng tín dụng, qua đó xác định xác suất mất mát khi cấp tín dụng cho khách hàng. Quá trình dự đoán xác xuất mất mát của một khách hàng nào đó là một quá trình điều chỉnh khách quan. Tuy nhiên, việc đánh giá tín dụng là một quá trình được thiết lập mà qua đó một nhà quản trị tín dụng thành công có thể tạo ra được những điều chỉnh chính xác, hợp lý về xác suất không trả được nợ của khách hàng theo từng nhóm khách hàng khác nhau.
Quản trị tín dụng đòi hỏi phải luôn cập nhật thông tin một cách nhanh chóng và chính xác. Đối với khách hàng là doanh nghiệp, thông tin tín dụng khách hàng thường bao gồm những thông tin chủ yếu như sau:
- Bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả kinh doanh.
- Các thông số tài chính quan trọng.
- Thông tin từ các nhà cung cấp của doanh nghiệp cho biết họ thường trả đúng thời hạn hay trả trễ hơn và trong thời gian gần đây họ có lần nào không thanh toán nợ hay không.
- Bảng mô tả điều kiện vật lý trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Bảng mô tả về người chủ doanh nghiệp, bao gồm báo cáo về các lần phá sản, kiện tụng trước đây của họ.
Ở những thị trường có bộ phận đánh giá mức độ tín nhiệm tín dụng, thông tin về mức độ tín nhiệm tín dụng là vô cùng cần thiết.
Đánh giá tín dụng khách hàng cá nhân tương tự cũng như vậy, bao gồm thông tin về thu nhập, số năm làm việc, sở hữu nhà cửa, đất đai, thông tin về tín nhiệm tín dụng trong quá khứ. Mặc dù có rất nhiều thông tin tín dụng nhưng chúng vẫn phải được xử lý. Ngày nay, hệ thống thông tin điện tử có thể giúp các nhà quản trị ra quyết định chính xác hơn, tuy nhiên, hầu hết các quyết định tín dụng vẫn là quyết định không chắc chắn.
Về nguyên tắc, doanh nghiệp nên mở rộng tiêu chuẩn chất lượng cho các tài khoản khi khả năng sinh lợi trên doanh thu được lớn hơn chi phí tăng thêm. Như vậy, chi phí cho việc nới rộng tiêu chuẩn tín dụng là gì? Một số chi phí phát sinh do việc mở rộng bộ phận tín dụng, nhân viên làm công việc liên quan đến việc kiểm tra các tài khoản tăng thêm, và phục vụ số khoản phải thu tăng thêm. Chúng ta lấy các chi phí này trừ ra khỏi mức sinh lợi từ doanh thu tăng lên để xác định mức sinh lợi ròng. Một chi phí khác phát sinh từ mức sinh lợi tăng thêm này là mất mát do nợ xấu.
Cuối cùng là chi phí cơ hội để có được vốn cho việc đầu tư vào khoản phải thu tăng thêm thay vì đầu tư vào các tài sản khác. Khoản phải thu tăng thêm hình thành từ
(1) doanh thu tăng thêm và (2) kỳ thu tiền bình quân dài hơn. Nếu khách hàng mới bị hấp dẫn bởi việc doanh nghiệp nới rộng tiêu chuẩn tín dụng, tốc độ thu nợ từ các khách hàng có chất lượng thấp hơn này thường chậm hơn so với tốc độ thu tiền từ các khách hàng hiện tại. Hơn nữa, việc mở rộng tín dụng tự do hơn có thể làm cho các khách hàng hiện tại có xu hướng kéo dãn thời gian thanh toán so với trước.
Để đánh giá khả năng sinh lợi của việc mở rộng tiêu chuẩn tín dụng, chúng ta phải biết mức sinh lợi của doanh thu tăng thêm, nhu cầu tăng thêm đối với sản phẩm do tiêu chuẩn tín dụng được mở rộng, kỳ thu tiền bình quân tăng thêm, và tỷ suất sinh lợi cần thiết trên đầu tư.
Giả sử công ty A & M có doanh thu tín dụng hiện tại là 100 triệu đồng, tỷ lệ chi phí biến đổi cận biên là 90% giá bán, bao gồm cả chi phí cho bộ phận tín dụng. Công ty đang hoạt động dưới mức công suất tối đa và việc tăng doanh thu sẽ không làm tăng chi phí cố định. Vì thế, tỷ lệ lợi nhuận gộp cho mỗi đơn vị sản phẩm bằng giá bán trừ chi phí biến đổi, bằng 10% doanh thu.
Giả thiết rằng doanh thu hiện tại sẽ không có xu hướng tăng thêm. Công ty dự kiến sẽ mở rộng tiêu chuẩn tín dụng cho các nhóm khách hàng A, B và C. Doanh thu và kỳ thu tiền bình quân của nhóm khách hàng này được cho trong bảng sau:
Bảng 6.1. Dự đoán thông tin tín dụng của các nhóm khách hàng
Hiện tại | Nhóm A | Nhóm B | Nhóm C | |
Doanh thu tín dụng (triệu đồng) | 100 | 115 | 120 | 122 |
Kỳ thu tiền bình quân - KTTbq(ngày) | 45 | 50 | 90 | 140 |
Có thể bạn quan tâm!
- Tài chính doanh nghiệp - 18
- Tài chính doanh nghiệp - 19
- Quản Lý Tài Sản Trong Doanh Nghiệp
- Phân Tích Quyết Định Kéo Dài Thời Hạn Bán Hàng Cho A & M
- Chi Phí Đầu Tư Vào Hàng Tồn Kho Dự Trữ An Toàn Tối Ưu
- Hao Mòn Và Khấu Hao Tài Sản Cố Định
Xem toàn bộ 220 trang tài liệu này.
Dự kiến khách hàng hiện tại sẽ không thay đổi thói quen thanh toán của họ. Chi phí cơ hội của vốn đầu tư vào khoản phải thu là 30%.
Các thông tin này giúp chúng ta đánh giá được đánh đổi giữa lợi nhuận kỳ vọng tăng thêm trên doanh thu tăng thêm và chi phí cơ hội của việc đầu tư và khoản phải thu. Đầu tư tăng thêm chỉ phát sinh từ các khách hàng mới. Lợi nhuận tăng thêm là tỷ lệ lợi nhuận gộp cận biên nhân doanh thu tăng thêm. Với doanh thu tăng thêm cho từng nhóm khách hàng, khoản phải thu tăng thêm hình thành và bằng kỳ thu tiền bình quân nhân với doanh thu tín dụng bình quân mỗi ngày. Trong ví dụ này, vốn đầu tư tăng thêm được tính bằng khoản phải thu tăng thêm nhân 90%. Cuối cùng, chúng ta xác định chi phí cơ hội do đầu từ vào các khoản phải thu bằng cách nhân vốn đầu tư tăng thêm với chi phí cơ hội của vốn là 30%. Lợi nhuận ròng được tính bằng lợi nhuận tăng thêm trừ chi phí cơ hội của vốn. Một chính sách tín dụng tối ưu sẽ liên quan đến việc mở rộng tự do hơn cho đến khi khả năng sinh lợi cận biên trên doanh thu bằng thu nhập cần thiết trên đầu tư tăng thêm vào khoản phải thu. Kết quả được trình bày ở bảng sau:
Bảng 6.2. Phân tích quyết định mở rộng tín dụng cho các nhóm khách hàng
Đơn vị tính: triệu đồng
Chỉ tiêu | Giải thích | Nhóm A | Nhóm B | Nhóm C | ||
(1) | Doanh thu tăng thêm | 15 | 5 | 2 | ||
(2) | Lợi nhuận tăng thêm | (1) * 10% | 1,5 | 0,5 | 0,2 | |
(3) | Khoản phải thu tăng thêm | KTTbq* (1) | 2,08 | 1,25 | 0,7 | |
360 | ||||||
(4) | Vốn đầu tư tăng thêm | (3) * 90% | 1,875 | 1,125 | 0,63 | |
(5) | Chi phí cơ hội vốn | (4) * 30% | 0,5625 | 0,3375 | 0,189 | |
(6) | Lợi nhuận ròng tăng thêm | (2) – (5) | 0,9375 | 0,1625 | 0,011 |
Kết quả cho thấy công ty nên mở tín dụng cho toàn bộ nhóm khách hàng A, B và
C. Tuy nhiên, vì chúng ta chấp nhận rủi ro tín dụng cao hơn, nên chúng ta sẽ làm tăng