2.1.2. Thực trạng pháp luật về bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại
Chủ sở hữu tên thương mại có quyền sử dụng và chuyển giao tên thương mại đó theo quy định của pháp luật. Cũng như các quan hệ dân sự khác, những tranh chấp liên quan đến việc xác lập quyền, sử dụng và chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại cũng thường phát sinh trong xã hội.
* Hành vi xâm phạm quyền đối với tên thương mại
Cùng với sự phát triển của hoạt động thương mại và tiến bộ vượt bậc của khoa học công nghệ, "tình trạng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ cũng ngày càng nghiêm trọng và đáng báo động ở mỗi quốc gia trên thế giới" [23]. Những hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ không chỉ tác động tiêu cực đến chủ thể quyền sở hữu trí tuệ mà còn gây tổn hại cho nhà sản xuất hợp pháp, người tiêu dùng, nền kinh tế và toàn xã hội.
Ở Việt Nam, tình trạng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ cũng ngày càng gia tăng và ngày càng tinh vi hơn. Theo Nghị định số 105/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ, thì hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ là hành vi xâm phạm đến các đối tượng đang trong thời hạn được bảo hộ.
Hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại là mọi hành vi sử dụng chỉ dẫn thương mại nào trùng hoặc tương tự với tên thương mại của người khác đã được sử dụng trước cho cùng loại sản phẩm, dịch vụ hoặc cho sản phẩm, dịch vụ tương tự, gây nhầm lẫn về chủ thể kinh doanh, cơ sở kinh doanh, hoạt động kinh doanh dưới tên thương mại đó.
Yếu tố xâm phạm quyền đối với tên thương mại được thể hiện dưới dạng chỉ dẫn thương mại gắn trên hàng hoá, bao bì hàng hoá, phương tiện
dịch vụ, giấy tờ giao dịch, biển hiệu, phương tiện quảng cáo và các phương tiện kinh doanh khác trùng hoặc tương tự tới mức gây nhầm lẫn với tên thương mại được bảo hộ (Điều 13 Nghị định số 105/2006/NĐ-CP của Chính phủ). Để xác định dấu hiệu bị nghi ngờ có phải là yếu tố xâm phạm quyền đối với tên thương mại hay không cần phải so sánh dấu hiệu đó với tên thương mại được bảo hộ và phải so sánh sản phẩm, dịch vụ mang dấu hiệu đó với sản phẩm, dịch vụ thuộc phạm vi bảo hộ, dựa trên các căn cứ sau đây: (a) Dấu hiệu bị nghi ngờ trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với tên thương mại được bảo hộ; trong đó một dấu hiệu bị coi là trùng với tên thương mại được bảo hộ nếu giống với tên thương mại về cấu tạo từ ngữ, kể cả cách phát âm, phiên âm đối với chữ cái; dấu hiệu bị coi là tương tự với tên thương mại được bảo hộ nếu tương tự về cấu tạo, cách phát âm, phiên âm đối với chữ cái, gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về chủ thể kinh doanh, cơ sở kinh doanh, hoạt động kinh doanh dưới tên thương mại được bảo hộ; (b) Sản phẩm, dịch vụ mang dấu hiệu bị nghi ngờ bị coi là trùng hoặc tương tự với sản phẩm, dịch vụ mang tên thương mại được bảo hộ nếu nếu giống nhau hoặc tương tự nhau về bản chất, chức năng, công dụng và kênh tiêu thụ (Điều 13 Nghị định số 105/NĐ-CP).
Từ những quy định trên có thể hiểu rằng, hành vi xâm phạm quyền đối với tên thương mại là hành vi sử dụng nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với tên thương mại của người khác đã sử dụng trước. Tuy nhiên, trên thực tế việc xác định các chỉ dẫn thương mại (nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý) tương tự đến mức gây nhầm lẫn với tên thương mại của người khác là rất khó khăn và như vậy do pháp luật quy định không rõ ràng nên việc xác định hành vi xâm phạm quyền đối với tên thương mại còn nhiều vướng mắc trên thực tế.
* Biện pháp bảo vệ quyền đối với tên thương mại
Có thể bạn quan tâm!
- Vài Nét Về Pháp Luật Tên Thương Mại Trên Thế Giới
- Thực Trạng Pháp Luật Về Bảo Hộ Quyền Sở Hữu Công Nghiệp Đối Với Tên Thương Mại
- Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại theo quy định của pháp luật Việt Nam - 7
- Thực Trạng Hoạt Động Bảo Hộ Quyền Sở Hữu Công Nghiệp Đối Với Tên Thương Mại Ở Việt Nam Hiện Nay
- Thực Trạng Hoạt Động Bảo Vệ Quyền Đối Với Tên Thương Mại
- Phương Hướng Và Giải Pháp Cụ Thể Nhằm Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bảo Hộ Quyền Sở Hữu Công Nghiệp Đối Với Tên Thương Mại
Xem toàn bộ 104 trang tài liệu này.
Biện pháp bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại là những cách thức được chủ thể có quyền đối với tên thương mại hoặc Nhà nước sử dụng để bảo vệ quyền đối với tên thương mại khi quyền này bị xâm phạm.
Pháp luật nước ta thừa nhận nhiều biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Để bảo vệ tên thương mại, cũng áp dụng những biện pháp đó. Vì quyền đối với tên thương mại là một trong những đối tượng thuộc quyền sở hữu trí tuệ. Nếu dựa vào chủ thể thực hiện hành vi bảo vệ, có thể chia các biện pháp bảo vệ quyền đối với tên thương mại thành hai loại: Chủ thể sở hữu tên thương mại tự bảo vệ quyền đối với tên thương mại của mình (biện pháp tự bảo vệ) và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực thi pháp luật và qua đó bảo vệ quyền đối với tên thương mại (biện pháp bảo vệ tên thương mại bởi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền). Các cơ quan nhà nước có thể sử dụng nhiều biện pháp khác nhau để bảo vệ quyền này: "Biện pháp hành chính; biện pháp dân sự; biện pháp hình sự; biện pháp kiểm soát biên giới về sở hữu công nghiệp (trong đó có tên thương mại) về hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu" [20]. Các biện pháp này được quy định trong Luật Sở hữu trí tuệ và nhiều văn bản có liên quan: Văn bản pháp luật dân sự, văn bản pháp luật hành chính, văn bản pháp luật hình sự, văn bản pháp luật thương mại. Khi có hành vi xâm phạm quyền đối với tên thương mại, việc xác định biện pháp nào sẽ được áp dụng để bảo vệ quyền sở hữu dựa vào ba yếu tố: Một là, sự lựa chọn của người bị xâm hại (kể cả trường hợp người tiêu dùng bị thiệt hại báo cho cơ quan chức năng); hai là, phụ thuộc vào sự lựa chọn của cơ quan chức năng (ví dụ: Trong trường hợp cần thiết, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, biện pháp kiểm soát hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử phạt hành chính theo quy
định của Luật Sở hữu trí tuệ và các quy định khác của pháp luật có liên quan); ba là, dựa vào tính chất, mức độ bị xâm phạm.
Các biện pháp cụ thể được áp dụng để bảo vệ quyền đối với tên thương mại là:
- Biện pháp tự bảo vệ:
Biện pháp tự bảo vệ xuất phát từ nguyên tắc tôn trọng, bảo vệ quyền dân sự của pháp luật Việt Nam, được ghi nhận tại Điều 9 Bộ luật Dân sự năm 2005 và được cụ thể hóa tại Điều 198 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005.
"Tự bảo vệ tên thương mại là việc người có quyền đối với tên thương mại tự mình tiến hành các biện pháp trong khuôn khổ của pháp luật nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình" [24].
Biện pháp tự bảo vệ cho phép chủ thể bị xâm phạm quyền được áp dụng những biện pháp nhất định để bảo vệ quyền của mình. Các biện pháp mà chủ thể bị xâm phạm quyền đối với tên thương mại có thể lựa chọn để áp dụng là: Ngăn ngừa hành vi xâm phạm quyền; yêu cầu tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm phải chấm dứt hành vi xâm phạm; buộc người có hành vi xâm phạm phải bồi thường thiệt hại. Người có quyền đối với tên thương mại bị xâm phạm có thể sử dụng các biện pháp này bằng cách trực tiếp gặp chủ thể có hành vi vi phạm hoặc sử dụng các phương thức khác như: Gọi điện thoại, gửi thư qua bưu điện, gửi thư điện tử, gửi fax hoặc tiến hành những hành vi cụ thể để bảo vệ quyền sở hữu của mình. Người bị xâm phạm quyền sở hữu có thể lựa chọn áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khác nhau để tự bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của mình. Tuy nhiên, việc chủ thể áp dụng những biện pháp để tự bảo vệ quyền đó không được trái với quy định của pháp luật và đạo đức xã hội.
Biện pháp tự bảo vệ được áp dụng phổ biến trong đời sống. Trên thực tế, khi quyền sở hữu trí tuệ bị xâm phạm, biện pháp bảo vệ đầu tiên được áp
dụng là tự bảo vệ. Trước hết, biện pháp này tôn trọng quyền tự định đoạt của chủ thể. Hơn nữa, mặc dù không có sự can thiệp của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng trong chừng mực nhất định, biện pháp này cũng giúp nhanh chóng ngăn chặn, chấm dứt hành vi xâm phạm.
Về tính kinh tế: Biện pháp tự bảo vệ là biện pháp có tính kinh tế cao nhất do tiết kiệm được thời gian, chi phí cho việc giải quyết tranh chấp. Trong khi việc giải quyết tranh chấp bằng biện pháp khởi kiện không chỉ tốn kém về thời gian cho việc giải quyết theo trình tự tố tụng mà còn tốn kém chi phí cho việc tham gia tố tụng, chi phí giám định.
Hiệu quả bảo vệ: Biện pháp tự bảo vệ là biện pháp mang tính kịp thời, tạo khả năng ngăn chặn hành vi xâm phạm ngay từ đầu. Ngay khi phát hiện ra có hành vi xâm phạm hoặc khả năng xâm phạm, chủ thể có thể áp dụng ngay lập tức mà không cần chờ bất kỳ một thủ tục nào. Đặc điểm này cũng phần nào tránh được vụ việc xâm phạm trở nên nghiêm trọng hơn. Biện pháp tự bảo vệ bên cạnh những ưu điểm về hiệu quả bảo vệ như nhanh chóng, kịp thời, thì một hạn chế lớn nhất của biện pháp này là hiệu quả bảo vệ không cao, do không được bảo đảm bằng tính cưỡng chế nhà nước. Yêu cầu của chủ thể không được bảo đảm bằng cơ chế mang tính quyền lực nhà nước mà hoàn toàn trông chờ, phụ thuộc vào sự tự nguyện và thiện chí của bên xâm phạm. Do vậy, nếu bên xâm phạm không tự nguyện, thiện chí chấm dứt hành vi xâm phạm, khắc phục hậu quả đã gây ra thì biện pháp này không mang lại hiệu quả.
- Biện pháp hành chính:
Xử lý vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm pháp luật về tên thương mại là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng các biện pháp được quy định trước về xử phạt vi phạm hành chính để xử lý các hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp của cá nhân, tổ chức mà chưa đến mức truy
cứu trách nhiệm hình sự. Xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp hành chính được quy định tại Mục I Chương XVIII Luật Sở hữu trí tuệ, Chương IV Nghị định số 105/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ và mới nhất là Nghị định số 97/2010/NĐ-CP ngày 21/9/2010 của Chính phủ quy định xử phạt hành chính về sở hữu công nghiệp thay thế Nghị định số 106/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006.
Tổ chức, cá nhân thực hiện một trong các hành vi sau đây vì mục đích kinh doanh gây thiệt hại cho người tiêu dùng hoặc cho xã hội, không chấm dứt hành vi xâm phạm quyền mặc dù đã được chủ sở hữu quyền yêu cầu thì xâm phạm quyền đối với tên thương mại của người khác và bị xử lý hành chính, các hành vi đó là: "Bán; chào hàng; vận chuyển, kể cả quá cảnh; tàng trữ; trưng bày để bán hàng hóa, dịch vụ xâm phạm quyền đối với tên thương mại; Đặt hàng, giao việc, thuê người khác thực hiện những hành vi trên" [7].
Ngoài ra, còn có các hành vi xâm phạm quyền đối với tên thương mại
như:
(a) Sản xuất (bao gồm: Thiết kế, chế tạo, gia công, lắp ráp, chế biến, đóng gói) hàng hóa mang dấu hiệu xâm phạm quyền đối tên thương mại; (b) Gắn (bao gồm: In, dán, đính, đúc, dập khuôn hoặc bằng hình thức khác) tem, nhãn, vật phẩm khác mang dấu hiệu xâm phạm quyền đối với tên thương mại lên hàng hóa; (c) Nhập khẩu hàng hóa mang dấu hiệu xâm phạm quyền đối với tên thương mại; Đặt hàng, giao việc, thuê người khác thực hiện hành vi quy định tại các điểm a, b và c [7].
Hành vi sử dụng dấu hiệu xâm phạm quyền đối với tên thương mại
trong quảng cáo hoặc thể hiện dấu hiệu đó trên giấy tờ giao dịch kinh doanh,
biển hiệu, bao bì hàng hóa, phương tiện kinh doanh, phương tiện dịch vụ, phương tiện quảng cáo.
Đối với biện pháp hành chính, cách thức bảo vệ quyền của chủ thể bị xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ nói chung rất phong phú. Cụ thể bao gồm các biện pháp xử phạt hành chính (trong đó có hình thức xử phạt chính và hình thức xử phạt bổ sung) và các biện pháp khắc phục hậu quả. Mỗi hành vi vi phạm hành chính chỉ bị áp dụng một hình thức xử phạt chính là cảnh cáo hoặc phạt tiền. Bên cạnh đó, tuỳ theo tính chất, mức độ xâm phạm, tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm còn có thể bị áp dụng một hoặc nhiều hình thức xử phạt bổ sung. Theo quy định tại Điều 11 Nghị định số 97/2010/NĐ-CP thì hình thức xử phạt bổ sung bao gồm: Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm; Đình chỉ hoạt động kinh doanh hàng hóa, dịch vụ vi phạm, kể cả hoạt động thương mại điện tử đối với hành vi xâm phạm quyền đối với tên thương mại nêu trên. Ngoài ra, còn có các biện pháp khắc phục hậu quả như: Buộc loại bỏ yếu tố vi phạm; buộc tiêu hủy yếu tố vi phạm, buộc tiêu hủy hàng hóa vi phạm không loại bỏ được yếu tố vi phạm; Buộc phân phối hoặc đưa vào sử dụng không nhằm mục đích thương mại hàng hóa, vi phạm đối với hành vi vi phạm quy định từ khoản 1 đến khoản 12 Điều này; Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam đối với hàng hóa quá cảnh xâm phạm hoặc buộc tái xuất đối với hàng hóa nhập khẩu xâm phạm sau khi đã loại bỏ yếu tố vi phạm trên hàng hóa; Buộc loại bỏ thông tin về hàng hóa, dịch vụ vi phạm trên phương tiện quảng cáo, trang tin điện tử hoặc thay đổi, thu hồi tên doanh nghiệp, tên miền chứa yếu tố vi phạm; Thu hồi về ngân sách nhà nước số tiền thu lợi bất hợp pháp do thực hiện hành vi xâm phạm mà có.
Để bảo đảm việc xử lý các hành vi xâm phạm quyền đối với tên thương mại bằng các biện pháp hành chính đạt hiệu quả, Luật Sở hữu trí tuệ cho phép các cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn và bảo
đảm xử phạt hành chính. Tuy nhiên, cơ quan nhà nước có thẩm quyền chỉ được áp dụng các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử phạt hành chính trong những trường hợp nhất định theo quy định tại khoản 1 Điều 215 Luật Sở hữu trí tuệ: (a) Hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ có nguy cơ gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho người tiêu dùng hoặc cho xã hội; (b) Tang vật vi phạm có nguy cơ tẩu tán hoặc cá nhân, tổ chức vi phạm có biểu hiện trốn tránh trách nhiệm; (c) Nhằm bảo đảm thi hành quyết định xử phạt hành chính.
Bên cạnh đó, tổ chức, cá nhân bị xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp yêu cầu cơ quan nào xử lý hành vi xâm phạm cũng là một vấn đề lớn cần phải được xem xét để hoàn thiện. Hiện nay, pháp luật quy định thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính cho rất nhiều cơ quan, theo khoản 3 Điều 200 Luật Sở hữu trí tuệ thì việc áp dụng biện pháp hành chính thuộc thẩm quyền của các cơ quan thanh tra, quản lý thị trường, hải quan, Ủy ban nhân dân các cấp, cụ thể như sau: Cơ quan Thanh tra Khoa học và Công nghệ có thẩm quyền xử lý các hành vi xâm phạm quyền đối với tên thương mại nêu trên trừ hành vi xảy ra trong quá cảnh, xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa; Cơ quan quản lý thị trường có thẩm quyền xử lý các hành vi xâm phạm trong hoạt động buôn bán, vận chuyển hàng hoá vi phạm tại thị trường trong nước; Cơ quan Hải quan có thẩm quyền xử lý hành vi xâm phạm trong hoạt động quá cảnh, xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa; Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Ủy ban nhân dân cấp huyện có thẩm quyền xử lý các hành vi vi phạm về sở hữu công nghiệp xảy ra tại địa phương mà mức phạt, hình thức xử phạt, biện pháp xử lý áp dụng đối với hành vi đó vượt quá thẩm quyền của cơ quan thanh tra, quản lý thị trường, hải quan. Trong thực tế, các cơ quan này đôi khi hoạt động chồng chéo, đôi khi lại không cơ quan nào xử lý vi phạm. Chính vì vậy, để việc xử lý các hành vi vi phạm quyền sở hữu trí tuệ nói chung đạt hiệu quả cao, đòi hỏi các cơ quan này phải