Tác động của vốn xã hội đối với kết quả kinh doanh của doanh nghiệp - trường hợp nghiên cứu ngành Dệt may khu vực phía Nam, Việt Nam - 2


Thesis title: The impact of social capital on business performance of enterprises ­ Case study of textile and garment industry in South Vietnam.

Keywords: Social capital, knowledge acquisition, product innovation, business performance, Vietnam.

The thesis explores the relationship between social capital and business performance of enterprises in the textile industry in South Vietnam. Through considering the intermediate role of two factors of knowledge acquisition and product innovation. We employ mixed research methods including (1) Qualitative approach is used to explore the research model and adjust measurement; (2) After that, Quantitative research is applied to test research hypotheses. Data is mainly collected by directly interviewing senior leaders representing 293 enterprises across industries.

The study contributes to both in terms of literature and management practice. Social capital of business includes three aspects: social capital from leadership, internal social capital, and external social capital that indirectly affect business performance. At the same time, the study also explores the mediating role of two factors of knowledge acquisition and product innovation in transmission affecting business performance. Moreover, this study also draws out governance implications for leaders of textile businesses and policymakers, across levels of the industry.


CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ NGHIÊN CỨU


Trong Chương 1, trình bày lý do nghiên cứu của đề tài thông qua việc phân tích bối cảnh lý thuyết và bối cảnh thực tiễn ngành dệt may tại Việt Nam. Qua đó, khái quát các nghiên cứu liên quan về vốn xã hội và kết quả kinh doanh nhằm tìm ra khe hổng nghiên cứu.

Kế tiếp, trình bày mục tiêu, câu hỏi, phương pháp, đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Sau cùng, tác giả trình bày ý nghĩa của nghiên cứu và kết cấu của luận án.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 295 trang tài liệu này.

1.1. Lý do nghiên cứu của đề tài

1.1.1 Bối cảnh lý thuyết nghiên cứu

Tác động của vốn xã hội đối với kết quả kinh doanh của doanh nghiệp - trường hợp nghiên cứu ngành Dệt may khu vực phía Nam, Việt Nam - 2


Lịch sử phát triển nhân loại của mỗi quốc gia nói riêng và thế giới nói chung, các loại hình vốn khác nhau luôn tồn tại, tích lũy và phát triển. Trong đó, bên cạnh các loại hình vốn khác nhau như vốn kinh tế, vốn con người, vốn tài nguyên, riêng vốn xã hội luôn hiện diện và đóng góp vào đời sống tinh thần cũng như vật chất trong cuộc sống mỗi con người. Thật ra, các nhà khoa học bắt đầu quan tâm đến khái niệm vốn xã hội khi lý giải hiện tượng hai cộng đồng dân cư có tài sản (vốn kinh tế), các nguồn lực (vốn con người, vốn công nghệ) và môi trường (vốn tài nguyên) tương đương nhau nhưng một bên phát triển và một bên suy tàn. Chính điều này, các nhà khoa học đã đúc kết và tiến hành làm hoàn thiện khái niệm vốn xã hội (VXH), từ đó, xem xét mối quan hệ giữa VXH với các loại hình vốn khác. Có thể nói, VXH đóng vai trò như một chất keo kết dính các nguồn vốn khác lại với nhau, phối hợp nhau để tăng cường hiệu quả sử dụng của các nguồn vốn, đóng góp vào việc tăng trưởng kinh tế (Lins và cộng sự, 2017; Dasgupta, 2005).

Vốn xã hội đã có lịch sử phát triển lâu đời tại các quốc gia có kinh tế phát triển. Thành quả kinh doanh của doanh nghiệp (DN) được tăng lên đáng kể khi vận dụng vốn xã hội. Đặc biệt, các DN hoạt động trong ngành dệt may cần đầu tư nhiều vốn, kỹ thuật, công nghệ và con người để đảm nhiệm cho nhiều công đoạn sản xuất khác nhau cũng như luôn sử dụng nhiều nguồn lực để đổi mới sản phẩm, thích ứng theo xu hướng


mới của người tiêu dùng. Do đó, DN trong ngành dệt may luôn cần sử dụng VXH như làm chất xúc tác kết nối hệ thống các DN từ khâu kéo sợi, dệt, nhuộm, may đến việc tiêu thụ sản phẩm. Chính VXH hỗ trợ doanh nhân có nhiều cơ hội hơn để tiếp cận các nguồn lực cần thiết phục vụ cho hoạt động kinh doanh (Dai và cộng sự, 2015). Các nguồn lực mà các doanh nhân có được thông qua mạng lưới quan hệ cá nhân của họ và các kết nối xã hội cho phép họ xác định các cơ hội kinh doanh (Bhagavatula và cộng sự, 2010), từ đó, đóng góp chung vào kết quả kinh doanh (Akintimehin và cộng sự, 2019; Nasip và cộng sự, 2017).

Lý thuyết là cơ sở nền tảng để vận dụng vào trong thực tiễn. Trong đó, hai nền tảng lý thuyết quan trọng về phân tích các yếu tố của lợi thế cạnh tranh liên quan đến kết quả hay hiệu quả kinh doanh của DN, đó là mô hình tổ chức công nghiệp ­ IO (Industrial Organization) và mô hình dựa trên nguồn lực ­ RBV (Resource ­ Based View).

Tổ chức Công nghiệp phân tích các yếu tố về hoạt động hoặc những bộ phận khác nhau góp phần xây dựng chiến lược tổng thể DN, mục tiêu là sản phẩm/dịch vụ của DN chinh phục được thị trường. Mô hình tổ chức công nghiệp cho rằng lợi thế cạnh tranh có thể đạt được khi các DN thực hiện các chiến lược áp đặt bởi các đặc điểm của các yếu tố bên ngoài (Porter, 1985). Trong khi đó, quan điểm dựa trên nguồn lực (RBV) cho rằng các yếu tố tạo nên thành công phụ thuộc vào nguồn lực và khả năng của từng DN. Theo quan điểm này, các DN được xem như là nơi tập hợp rất nhiều nguồn lực. Các lựa chọn của DN không được quyết định bởi những hạn chế về môi trường, mà bằng cách đánh giá khả năng DN trong việc khai thác tốt nhất các nguồn lực của mình liên quan đến các cơ hội cũng như thách thức từ môi trường bên ngoài như thế nào. Điều này có nghĩa là chiến lược của DN được thảo luận trên phương diện cân đối nguồn lực DN hiện có để sử dụng chúng theo hướng tạo ra lợi thế (Barney, 1991).

Dựa trên hai nền tảng của lý thuyết trên, hàng loạt các nghiên cứu về sự tác động của các yếu tố hữu hình và vô hình lên kết quả kinh doanh trong các lĩnh vực xã hội, giáo dục, kinh tế và văn hóa. Gần đây, các nghiên cứu ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của DN không chỉ là các yếu tố bên ngoài hay bên trong mà còn kết hợp cả hai như nghiên cứu về các yếu tố giá thành, phi giá thành, các yếu tố bên trong và bên ngoài DN (Keegan và cộng sự,1989).


Hiện nay, trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa, các tổ chức và DN gặp khó khăn trong việc làm cho mức độ thay đổi trong cơ cấu chính thức của họ đáp ứng với mức độ thay đổi từ môi trường kinh doanh. Do đó, các nghiên cứu tập trung chú ý về tầm quan trọng cũng như vai trò của cấu trúc quản lý không chính thức. Scott (1998) chỉ ra tầm quan trọng của môi trường và nhấn mạnh vào các cấu trúc không chính thức, các cấu trúc tổ chức không chính thức được xem là biểu hiện về giá trị, tính linh hoạt và tính năng động mà nó có thể bổ sung cho các cấu trúc tổ chức chính thức.

Một loại cấu trúc không chính thức, có được sự chú ý ngày càng cao gần đây, là mạng lưới xã hội (social networks). Các nhà nghiên cứu cho rằng mạng lưới xã hội có khả năng cung cấp cho nhà quản trị các nguồn lực có giá trị qua đó có ảnh hưởng sâu sắc đến hiệu quả của cá nhân và tổ chức (Adler & Kwon, 2002; Nahapiet & Ghoshal, 1998). Các nguồn lực có được từ mạng lưới xã hội được gọi chung là vốn xã hội (social capital). Thật ra, khái niệm vốn xã hội (VXH) được cho là xuất hiện đầu tiên vào năm 1916 của Lyda Judson Hanifan, nhà giáo dục Mỹ, đã thảo luận về cách những người hàng xóm có thể làm việc cùng nhau để giám sát trường học. Hanifan (1916) sử dụng định nghĩa vốn xã hội để chỉ các mối quan hệ trong xã hội như tình bạn hữu, thông cảm lẫn nhau và giao tiếp giữa các cá nhân hay gia đình. Từ đó, VXH được các học giả quan tâm nghiên cứu cũng như sử dụng trong nhiều lĩnh vực như tâm lý, giáo dục, kinh tế và xã hội trên phạm vi toàn thế giới.

Nếu như vốn vật chất (physical capital) nói đến các tài sản hữu hình, ví dụ như máy móc, thiết bị, công cụ, nhà xưởng; vốn con người (human capital) nói đến các tài sản cá nhân như năng lực cá nhân, kinh nghiệm làm việc, trình độ, kiến thức và kỹ năng

(McCallum và O’Connell, 2009) thì VXH đề

cập đến các năng lực quan hệ

xã hội

(relational competencies) của các cá nhân và tổ chức dựa vào nhận thức xã hội, tự quản trị, cam kết, thúc đẩy hợp tác, phối hợp, mạng lưới thông tin phản hồi được thiết lập theo niềm tin, thiện chí và có qua có lại (McCallum và O’Connell, 2009). Như vậy, VXH không chỉ là sự tổng hợp các của cải vật chất, các tài sản xã hội mà còn là chất xúc tác làm kết dính các tài sản xã hội này lại với nhau.

Trong thời gian qua, VXH đã được nghiên cứu ở ba cấp độ: Cộng đồng; tổ

chức/Doanh nghiệp và quốc gia. Ba cấp độ này liên quan đến: (1) cá nhân, (2) các tổ


chức, doanh nghiệp và (3) xã hội, quốc gia và toàn cầu.

(1) Cấp độ cộng đồng có nhiều học giả nổi tiếng nghiên cứu như Fukuyama (1997), Lin (1999), Coleman (1988), Bourdieu (1986), Putnam (1995), Nahapiet & Ghosal (1998). Theo đó, vốn xã hội được định nghĩa như là chất lượng mối liên kết giữa các cá nhân, các mạng lưới quan hệ, các chuẩn mực, niềm tin nhằm chia sẻ, hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau.

(2) Cấp độ tổ chức/doanh nghiệp có nhiều nghiên cứu của các tác giả Nguyen & Huỳnh (2012), Akintimehin và cộng sự (2019), Polyviou và cộng sự (2019), Tasavori

và cộng sự

(2018), Wang và cộng sự

(2016), Tian và cộng sự

(2016), Stam (2013),

Acquaah (2007). Các tác giả cho rằng VXH của DN chính là chất lượng mạng lưới mối quan hệ giữa các cá nhân, các bộ phận bên trong DN và chất lượng mạng lưới mối quan hệ của DN với các đối tác bên ngoài.

(3) Cấp độ quốc gia có các nghiên cứu của Sabatini (2005) nghiên cứu VXH của nước Ý cung cấp một khung đo lường mới về khái niệm đa chiều VXH đồng thời cũng cung cấp cách thức đo lường các đóng góp tích cực của VXH với các kết quả kinh tế. Một nghiên cứu khác về VXH của nước Úc, theo đó, sau khi tham vấn sâu rộng, Cục Thống kê Úc (ABS, 2004) đã phát triển một khung khái niệm đa chiều về vốn xã hội, cũng như một bộ chỉ số khả thi để đo lường các khía cạnh của vốn xã hội.

Các nghiên cứu về VXH ở nhiều cấp độ khác nhau sẽ giúp cho các cá nhân, các tổ chức, doanh nghiệp và các quốc gia thuận lợi hơn trong vấn đề tiếp cận, tìm hiểu, nghiên cứu và vận dụng VXH trong cuộc sống, trong công việc cũng như phát triển mối quan hệ trong xã hội phục vụ cho lợi ích của cá nhân, doanh nghiệp và quốc gia.

Trong nghiên cứu này, tác giả tập trung nghiên cứu về VXH ở cấp độ DN mà cụ thể là tác động của vốn xã hội đến kết quả kinh doanh. Các nghiên cứu trước đây, khi nghiên cứu về VXH trong DN, các nhà nghiên cứu tập trung vào ba yếu tố chính gồm Vốn xã hội lãnh đạo (VXLD), Vốn xã hội bên ngoài (VXBN) và Vốn xã hội bên trong (VXBT) (Nguyen và Huỳnh, 2012; McCallum và O’Connell, 2009). Tuy nhiên, chưa tìm thấy các nhà nghiên cứu xem xét mối quan hệ tác động lẫn nhau giữa các yếu tố này. Hơn nữa, có nhiều tác giả đã chỉ ra rằng VXH tác động tích cực đến kết quả kinh doanh


(Akintimehin và cộng sự, 2019); Nasip và cộng sự, 2017) nhưng chưa tìm thấy nghiên cứu nào đồng thời có xem xét mối quan hệ của VXH đối với kết quả kinh doanh thông qua hai yếu tố trung gian là tiếp thu kiến thức (TTKT) và đổi mới sản phẩm (DMSP).

Hơn nữa, nghiên cứu về VXH trong bối cảnh hội nhập, mở rộng quan hệ kinh tế theo mô hình kinh tế đặc thù của Việt Nam đang chuyển đổi và phát triển mạnh mẽ. Việc thực hiện nghiên cứu này có nhiều ý nghĩa vì các nghiên cứu thực nghiệm trước về VXH được thực hiện nhiều ở các quốc gia có nền kinh tế phát triển. Hơn nữa, tại Việt Nam, chưa tìm thấy các nghiên cứu có liên quan về VXH trong ngành dệt may.

Như vậy, xem xét bối cảnh nghiên cứu trong ngành dệt may cho thấy, có sự thiếu hụt các nghiên cứu về mối quan hệ giữa VXH với kết quả kinh doanh (TTKD). Đồng thời, khám phá thêm các yếu tố mới đóng vai trò trung gian trong mối quan hệ này để mở rộng mô hình nghiên cứu nhằm giúp cho các DN ngành dệt may gia tăng kết quả kinh doanh thông qua việc vận dụng VXH là hết sức cần thiết.

1.1.2 Bối cảnh thực tiễn ngành dệt may


Thời trang là một trong những phương tiện thay đổi dễ thấy nhất. Dệt may được xem như ngành công nghiệp thời trang, là một phần của một hiện tượng văn hóa và xã hội, hiểu rộng hơn được gọi là “hệ thống thời trang”, một khái niệm bao trùm không chỉ kinh doanh thời trang mà còn cả nghệ thuật thời trang, và không chỉ sản xuất mà còn cả tiêu dùng. Ngày nay, thời trang được coi là một trong những ngành công nghiệp quan trọng nhất vì nó chiếm một phần quan trọng trong nền kinh tế toàn thế giới (McKinsey & Company, 2016). Mọi người đều có nhu cầu ăn mặc và để đáp ứng nhu cầu đó thì cần phải có quần áo. Mặc quần áo thời trang và sành điệu là cách mà mọi người đạt được và thể hiện địa vị của mình (Kim và cộng sự, 2015). Ngành dệt may luôn là ngành thay đổi nhanh chóng, bởi vì mọi người thích mặc quần áo mới, các công ty luôn quảng bá sản phẩm để định vị thương hiệu của họ trong tâm trí khách hàng (Rahman và cộng sự, 2014). Hơn nữa, người tiêu dùng thường xuyên trao đổi với nhau về các xu hướng và phong cách mới, trao đổi thông tin và đưa ra các đề xuất, trong đó nêu bật vai trò của giao tiếp xã hội trong việc lan tỏa các xu hướng thời trang (Goldsmith & Clark, 2008).

Hiện nay, thời trang đã trở thành một ngành công nghiệp có quy mô lớn và mức độ


cạnh tranh cao trên toàn thế giới. Đặc biệt trong lĩnh vực dệt may thời trang có mạng lưới cung ứng khá phức tạp cả về sự phân chia của các hoạt động sản xuất và phân tán địa lý. Ngành công nghiệp này rất đáng nghiên cứu vì bối cảnh không chắc chắn, luôn cần sự đổi mới sáng tạo thường xuyên để thỏa mãn các sở thích khác nhau của người tiêu dùng và sự cạnh tranh gây gắt giữa các DN. Hiện nay, các công ty thời trang không chỉ phải đối mặt với những thách thức đặt ra bởi nhu cầu không thể tiên đoán, nhưng cũng phải thích ứng với một môi trường cạnh tranh mới (Priest, 2005). Sự phụ thuộc ngày càng tăng của thị trường các nước khối BRIC (Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc), và chi phí lao động tăng cao ở các nước mới nổi đã khiến các công ty thời trang tổ chức lại mạng lưới cung cấp của họ, tìm kiếm một sự cân bằng mới giữa nguồn sản xuất địa phương và nguồn sản xuất toàn cầu (Dana & cộng sự, 2007).

Theo số liệu tổng kết từ Hiệp hội dệt may Việt Nam năm 2019, kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may đạt 39 tỷ USD chiếm 7.54% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước (Thu Hoài, 2019). Đây là một ngành chiếm tỉ trọng xuất nhập khẩu rất lớn trong nền kinh tế quốc dân, giải quyết hàng triệu công ăn việc làm cho người lao động. Ngành dệt may phụ thuộc vào thị hiếu của người mua, việc sản xuất ra sản phẩm cuối cùng phải trải qua nhiều công đoạn khác nhau. Các hoạt động sản xuất cũng được triển khai ở nhiều quốc gia. Đặc biệt, các DN sở hữu thương hiệu nổi tiếng, các trung gian thương mại như hệ thống bán buôn, bán lẻ lớn đóng vai trò quyết định trong việc xác lập mạng lưới sản xuất cũng như việc tiêu thụ số lượng lớn sản phẩm thông qua các thương hiệu mạnh. Hệ thống sản xuất và phân phối phụ thuộc lẫn nhau thông qua chiến lược thuê gia công trên phạm vi toàn cầu. Theo Gereffi (2002) chuỗi giá trị dệt may thời trang chia thành 5 công đoạn chính: (1) các nhà cung cấp sản phẩm thô như bông tự nhiên, xơ; (2) các công ty dệt, nhuộm đảm nhận việc sản xuất các sản phẩm đầu vào như chỉ, sợi và vải; (3) các công ty may mặc đảm nhận việc thiết kế mẫu sản phẩm và sản xuất thành phẩm; 4) các trung gian thương mại đảm nhận việc xuất khẩu;

(5) hoạt động Marketing và phân phối.

Hơn nữa, ngành công nghiệp dệt may có vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế quốc dân nhằm đảm bảo nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, có điều kiện mở rộng thương mại quốc tế và mang lại nhiều nguồn thu cho đất nước. Điều này đã


thể hiện trong việc điều tiết các chính sách của chính phủ trong thời gian qua nhằm phát triển ngành dệt may như sau:

Thứ nhất, Chính phủ đã phê duyệt đề án tái cấu trúc Tập đoàn Dệt May Việt Nam (VINATEX) giai đoạn 2013 ­ 2015. Mục tiêu nhằm bảo đảm VINATEX tập trung vào các lĩnh vực sản xuất và kinh doanh chính. Qua đó hình thành chuỗi cung ứng sợi, dệt, nhuộm và may; đồng thời nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm, sức cạnh tranh và cải thiện hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, đóng góp vào quá trình phát triển kinh tế của đất nước. Trong năm 2014, Chính phủ cũng đã cấp ngân sách 65,6 tỷ đồng nhằm đào tạo nhân lực trong ngành dệt may Việt Nam, theo quyết định số 288/QĐ­TTg.

Thứ hai, Chính phủ xác định ngành công nghiệp dệt may là ngành chủ lực để phát triển kinh tế, giải quyết vấn đề việc làm và an sinh xã hội cho người lao động, vì nước ta có dân số đông và thu nhập còn thấp. Điều này được thể hiện trong các hiệp định thương mại tự do được ký kết giữa Việt Nam và các nước. Cụ thể như hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). Hiệp định này sẽ xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với hàng dệt may có xuất xứ từViệt Nam khi xuất khẩu vào thị trường các nước này (ngay hoặc có lộ trình). Ngoài ra, còn có hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và EU (EVFTA) mới đây đã được Nghị viện châu Âu phê chuẩn vào ngày 12/2/2020. Đây là Hiệp định thế hệ mới giữa Việt Nam và 28 nước thành viên EU. EVFTA sẽ mở ra thị trường xuất khẩu rộng lớn cho ngành dệt may của Việt Nam.

Như vậy, ngành dệt may là ngành công nghiệp chủ lực của Việt Nam, tuy nhiên, nguồn lực của các DN dệt may chưa tương xứng với tiềm năng phát triển của ngành, điều đó được thể hiện như sau:

Thứ nhất, theo báo cáo tại hội nghị quốc tế Diễn đàn Dệt May Việt Nam 2015 do

Hiệp hội Bông Sợi Việt Nam (VCOSA), Phòng Thương mại xuất nhập khẩu Dệt may Trung Quốc (CCCT) được tổ chức tại Hà Nội từ ngày 25 đến ngày 27/6/2015, thông qua hội thảo, một trong những điểm yếu mà các DN dệt may trong nước cần khắc phục là mở rộng mạng lưới quan hệ, chia sẻ thông tin và thiết lập mạng lưới quan hệ đối tác chiến lược. Đồng thời, các DN dựa trên các nguồn lực như vốn, công nghệ để xác định điểm mạnh, lợi thế, vai trò của mình trong chuỗi liên kết nội địa. Thông qua chuỗi liên

Xem tất cả 295 trang.

Ngày đăng: 11/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí