Kết quả nghiên cứu theo Bảng 4.15 cho thấy:
Yếu tố rủi ro thanh khoản hầu hết các mô hình đều có ý nghĩa thông kê cao đối với nghiên cứu trường hợp các ngân hàng Việt Nam. Kết quả này khá tương đồng với nghiên cứu trường hợp Đông Nam Á và các nghiên cứu trước đây.
Tham số của biến quy mô ngân hàng (SIZE) có giá trị âm và có ý nghĩa thống kê ở mức 1%, cho thấy quy mô ngân hàng tác động ngược chiều đến HQHĐKD ngân hàng. Kết quả về chiều hướng tác động của quy mô ngân hàng trường hợp Việt Nam khác biệt so với nghiên cứu trường hợp Đông Nam Á. Thực tế cho thấy, khi quy mô ngân hàng gia tăng không giúp làm tăng HQHĐKD ngân hàng để tạo tấm đệm chống các rủi ro xảy ra cho ngân hàng mà lại tác động làm giảm HQHĐKD. Điều này là phù hợp thực tế Việt Nam, nguyên nhân dẫn đến sự tương quan ngược dấu này là bởi những thay đổi trong chính sách điều hành của chính phủ và ngân hàng nhà nước (NHNN) trong từng thời kỳ của giai đoạn nghiên cứu. Trong giai đoạn suy thoái năm 2008 -2010, Chính phủ đã thực hiện chính sách hỗ trợ lãi suất làm cho hoạt động tín dụng tăng trưởng mạnh, nguồn thu từ lãi của các ngân hàng tăng cao kéo theo khả năng sinh lời của các ngân hàng tăng mạnh. Tuy nhiên, khi kiềm chế lạm phát, tốc độ tăng trưởng bắt đầu có dấu hiệu phục hồi thì hoạt động của các NHTM lại bộc lộ những hạn chế yếu kém, buộc phải tập trung vào nâng cao chất lượng hoạt động, xử lý nợ xấu, khó mở rộng quy mô hoạt động nên làm cho các hoạt động ngân hàng giảm sút, từ đó ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của ngân hàng. Làn sóng mua bán, sáp nhập ngân hàng tiếp tục diễn ra với hàng loạt các thương vụ như MHB - BIDV, PG Bank - Vietinbank, Mekong Bank - Maritime Bank và đây cũng là chủ trương của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước, giúp ngân hàng sau sáp nhập tăng trưởng vượt bậc về quy mô, cộng hưởng thế mạnh của cả hai, đồng thời giảm thiểu chi phí. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng là hiệu quả không được phát huy khi ngân hàng tái cơ cấu. Hay nói cách khác, tại Việt Nam, ngân hàng lớn vì đã đảm bảo vốn chủ sở hữu nên không có áp lực tăng vốn, sẽ mở rộng hoạt động tín dụng khiến tiềm ẩn tăng nợ xấu, đặc biệt trong bối cảnh nợ xấu cao dẫn đến RRTD gia tăng và tác động làm giảm HQHĐKD ngân hàng. Kết quả này hoàn toàn tương đồng với kết quả nghiên cứu của (Shen và cộng sự, 2009).
Tham số của biến rủi ro tín dụng được đo lường bằng thang đo LLP (Dự phòng rủi ro tín dụng/ Cho vay ròng) có giá trị âm và có ý nghĩa thống kê ở mức 1%, hay
RRTD tác động ngược chiều với HQHĐKD ngân hàng. Kết quả về chiều hướng tác động của RRTD trường hợp Việt Nam khác biệt so với nghiên cứu trường hợp Đông Nam Á. Điều đó có nghĩa RRTD tăng, HQHĐKD ngân hàng tăng nhưng có thể chỉ trong ngắn hạn. Khi các nhà quản trị nhận thấy có sự gia tăng rủi ro tín dụng, họ thường có xu hướng tăng chi phí giám sát chất lượng các khoản vay và kiểm soát nợ xấu. Sự bất ổn gia tăng khi nợ xấu tăng theo báo hiệu sự khởi đầu của thời kỳ tài chính bất ổn, dẫn đến các nhà quản trị phải phân bổ thêm nguồn lực để giám sát các khoản vay, điều này làm HQHĐKD ngân hàng giảm. Thực tế cho thấy công tác kiểm soát hoạt động tín dụng tại các NHTM Việt Nam chưa thực sự hiệu quả, điều này có thể được giải thích bởi lý thuyết “ đặc thù” của ngân hàng.
Bảng 4.16: Kết quả mô hình RRTK tác động HQHĐ kinh doanh ngân hàng, nghiên cứu trường hợp các quốc gia Đông Nam Á và Việt Nam :
KỲ VỌNG | THỰC TẾ | ||||||
Đông Nam Á | Việt Nam | ||||||
ROA | ROE | NIM | ROA | ROE | NIM | ||
lag (Pt-1 ) | (+) | (+) | (+) | (+) | (+) | (+) | (+) |
L1= FGAP | (+) | (+) | (+) | (+) | |||
L3 = NLTA | (+) | (-) | (+) | (+) | (+) | (+) | (+) |
L4 = NLST | (+) | (+) | (+) | (+) | |||
LIA | (+) | (+) | (+) | (+) | (+) | (+) | |
LLR | (-) | (-) | (-) | (-) | |||
LADS | (-) | ||||||
SIZE | (+) | (+) | (+) | (+) | (-) | (-) | (-) |
SIZE ^2 | (-) | (-) | (-) | (-) | |||
ETA | (+) | (+) | (+) | (+) | (+) | ||
LLP | (-/+) | (+) | (+) | (-) | (-) | (-) | |
GDP | (+) | (+) | (+) | (+) | |||
M2 | (-) | (+) | (+) | (+) | (+) | ||
INF | (-) | (+) | (+) | (+) | |||
D_CRIS | (-/+) | (-) | (-) |
Có thể bạn quan tâm!
- Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Rrtk Ngân Hàng, Nghiên Cứu Trường Hợp Các Quốc Gia Đông Nam Á
- Thống Kê Mô Tả Các Biến, Nghiên Cứu Trường Hợp Việt Nam Trong Mô Hình Tác Động Rrtk Đến Hiệu Quả Hoạt Động Kinh Doanh Ngân Hàng
- Tác Động Đến Rrtk Đến Hqhđ Ngân Hàng, Nghiên Cứu Trường Hợp Các Quốc Gia Đông Nam Á.
- Tác động của rủi ro thanh khoản đến hiệu quả hoạt động kinh doanh ngân hàng: nghiên cứu trường hợp các quốc gia Đông Nam Á 1670316926 - 17
- Hạn Chế Của Luận Án Và Hướng Nghiên Cứu Trong Tương Lai
- ) Roodman, D. (2006). How To Do Xtabond2: An Introduction To Difference And System Gmm In Stata.
Xem toàn bộ 210 trang tài liệu này.
Nguồn: tác giả tổng hợp từ kết quả nghiên cứu
Tóm lại, kết quả cho thấy RRTK là yếu tố tác động mạnh lên HQHĐKD ngân hàng, nghiên cứu trường hợp Đông Nam Á. Kết quả nghiên cứu trường hợp Việt Nam khá tương đồng kết quả nghiên cứu trường hợp Đông Nam Á và hoàn toàn phù hợp với kỳ vọng tác giả và điều này khá tương đồng với các nghiên cứu trước đây.
Nhìn chung, đa phần các biến nghiên cứu trường hợp Đông Nam Á có ý nghĩa cao hơn so với nghiên cứu trường hợp Việt Nam. Quy mô ngân hàng có tác động ngược chiều với HQHĐKD trong trường hợp Việt Nam, trong khi có tác động phi tuyến trong trường hợp các quốc gia Đông Nam Á. Điều này cho thấy các ngân hàng trong nghiên cứu trường hợp Việt Nam gia tăng quy mô không tác động làm tăng hiệu quả mà có nguy cơ giảm. Phát hiện này gợi ý nghiên cứu sâu hơn về yếu tố quy mô trong các nghiên cứu tiếp theo vì có thể quy mô các ngân hàng Việt Nam vẫn thấp hơn nhiều so với các ngân hàng trong khu vực Đông Nam Á.
Kết quả nghiên cứu này cho thấy hoạt động ngân hàng tại Việt Nam có những đặc thù khác với các nước. Điều này cũng có nhiều hàm ý cho các nhà hoạch định chính sách tại Việt Nam. Chiều hướng tác động của RRTD trường hợp Việt Nam khác biệt so với nghiên cứu trường hợp Đông Nam Á. Điều đó có nghĩa RRTD tăng, HQHĐKD ngân hàng tăng nhưng có thể chỉ trong ngắn hạn. Khi các nhà quản trị nhận thấy có sự gia tăng rủi ro tín dụng, họ thường có xu hướng tăng chi phí giám sát chất lượng các khoản vay và kiểm soát nợ xấu. Sự bất ổn gia tăng khi nợ xấu tăng theo báo hiệu sự khởi đầu của thời kỳ tài chính bất ổn, dẫn đến các nhà quản trị phải phân bổ thêm nguồn lực để giám sát các khoản vay, điều này làm HQHĐKD ngân hàng giảm. Thực tế cho thấy công tác kiểm soát hoạt động tín dụng tại các NHTM Việt Nam chưa thực sự hiệu quả, điều này có thể được giải thích bởi lý thuyết “đặc thù” của ngân hàng.
HQHĐKD ngân hàng Việt Nam cũng nhạy cảm với các biến động thị trường. Việc Chính phủ tăng cung tiền và lạm phát tăng sẽ có tác động tích cực đến hiệu quả ngân hàng. HQHĐKD ngân hàng Việt Nam không chịu tác động bởi yếu tố khủng hoảng tài chính có thể do thị trường tài chính Việt Nam chưa hội nhập sâu nhưng rất nhạy cảm với các biến động thị trường. Việc chính phủ theo đuổi mục tiêu kiểm soát lạm phát hay tăng trưởng đều có tác động đến HQHĐKD ngân hàng.
TÓM TẮT CHƯƠNG 4
Luận án xây dựng mô hình nghiên cứu dựa trên cách tiếp cận của ( Ferrouhi và Lahadiri, 2014) và (Trenca, Petria và Corovei, 2015) để kiểm định các yếu tố ảnh hưởng đến RRTK trường hợp các quốc gia Đông Nam Á. Bên cạnh đó, với kỳ vọng yếu tố quy mô ngân hàng, rủi ro tín dụng và khủng hoảng tài chính có tác động đến RRTK ngân hàng, trường hợp các quốc gia Đông Nam Á và Việt Nam, luận án đã kiểm định tác động của các yếu tố này.
Luận án đã kế thừa cách tiếp cận của (Growe và cộng sự, 2014; Ferrouhi, 2014) để xây dựng mô hình đánh giá tác động của RRTK đến HQHĐKD ngân hàng. Hơn nữa, tác giả có so sánh tác động khác biệt của RRTK đến HQHĐKD ngân hàng trường hợp các quốc gia Đông Nam Á và Việt Nam.
Như vậy, kết quả nghiên cứu của luận án đã kiểm chứng lại nhận định của các nghiên cứu trước và mở rộng đối tượng nghiên cứu với nhiều yếu tố ảnh hưởng đến RRTK và mở rộng phạm vi không gian nghiên cứu (trường hợp các quốc gia Đông Nam Á); thời gian nghiên cứu ( 2004 - 2016) từ nguồn dữ liệu Bankscope.
Luận án đã đạt được những kết quả cụ thể bao gồm:
(i) Luận án tìm thấy tác động của yếu tố biến trễ RRTK, quy mô ngân hàng, chất lượng tài sản thanh khoản, vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản, rủi ro tín dụng, thu nhập lãi thuần, tăng trưởng GDP, cung tiền, lạm phát, khủng hoảng tài chính đều có ý nghĩa thống kê đến RRTK, nghiên cứu trường hợp các quốc gia Đông Nam Á. Riêng đối với trường hợp Việt Nam, nghiên cứu chưa tìm thấy bằng chứng có ý nghĩa thống kê về tác động của yếu tố khủng hoảng tài chính, tăng trưởng GDP đối với RRTK.
(ii) Luận án tìm thấy RRTK đều tác động cùng chiều với HQHĐKD ngân hàng, trường hợp các quốc gia Đông Nam Á và Việt Nam. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu còn cho thấy yếu tố quy mô tác động ngược chiều đến HQHĐKD trường hợp Việt Nam trong khi tác động phi tuyến trong trường hợp các quốc gia Đông Nam Á. RRTD tác động cùng chiều với HQHĐKD ngân hàng trường hợp các quốc gia Đông Nam Á còn Việt Nam thì tác động ngược chiều. Yếu tố khủng hoảng tài chính có tác động đến HQHĐKD ngân hàng trường hợp các quốc gia Đông Nam Á còn Việt Nam thì chưa có đủ bằng chứng thống kê. Điều này hàm ý các chính sách cho các quốc gia Đông Nam Á và Việt Nam.
CHƯƠNG 5
KẾT LUẬN VÀ GỢI Ý CHÍNH SÁCH
5.1 Kết luận
Luận án phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến RRTK và tác động của RRTK đến HQHĐKD ngân hàng, trường hợp các quốc gia Đông Nam Á và có nghiên cứu trường hợp Việt Nam. Mô hình nghiên cứu sử dụng dữ liệu Bankscope giai đoạn 2004 -2016 và sử dụng phương pháp ước lượng SGMM. Nghiên cứu nhằm trả lời cho câu hỏi yếu tố nào ảnh hưởng đến RRTK ngân hàng, trường hợp các quốc gia Đông Nam Á? Chiều hướng tác động của RRTK đến HQHĐKD ngân hàng trường hợp các quốc gia Đông Nam Á như thế nào? Có sự khác biệt về kết quả hồi quy với dữ liệu trường hợp các quốc gia Đông Nam Á và Việt Nam hay không?
Trả lời cho mục tiêu nghiên cứu thứ nhất: kết quả nghiên cứu cho thấy có nhiều yếu tố tác động đến RRTK nhưng nhìn chung tập trung vào yếu tố mang tính nội tại của ngân hàng (quy mô ngân hàng, chất lượng tài sản thanh khoản, vốn chủ sở hữu, rủi ro tín dụng và thu nhập lãi thuần) và yếu tố vĩ mô (lạm phát, cung tiền, tăng trưởng, khủng hoảng tài chính). Kết quả nghiên cứu này phù hợp với lý thuyết cho vay thương mại và lý thuyết khả năng đánh đổi. Trả lời cho mục tiêu nghiên cứu thứ hai: kết quả nghiên cứu cho thấy RRTK tác động cùng chiều đến HQHĐKD ngân hàng, trường hợp các quốc gia Đông Nam Á, kết quả nghiên cứu này phù hợp với giả thuyết đánh đổi rủi ro và lợi nhuận. Hàm ý chính sách từ nghiên cứu này cho thấy đa số các ngân hàng có hiệu quả hoạt động kinh doanh ngân hàng đều chứa đựng RRTK cao.
Luận án sử dụng phương pháp ước lượng OLS, REM, FEM, SGMM cho bộ dữ liệu bảng cân bằng gồm 171 ngân hàng của 9 quốc gia Đông Nam Á và 26 ngân hàng Việt Nam trong giai đoạn năm 2004 - 2016. Luận án đã đạt được các kết quả quan trọng sau:
Các yếu tố ảnh hưởng đến RRTK ngân hàng, nghiên cứu trường hợp các quốc gia Đông Nam Á:
Một là, luận án đã tìm thấy nhiều yếu tố ảnh hưởng đến RRTK ngân hàng trường hợp các quốc gia Đông Nam Á bao gồm các yếu tố mang tính đặc thù của ngân hàng (độ trễ thanh khoản, quy mô ngân hàng, chất lượng tài sản thanh khoản, vốn ngân hàng, RRTD, thu nhập lãi thuần) và các yếu tố kinh tế vĩ mô ( tăng trưởng kinh tế, cung tiền, lạm phát và khủng hoảng tài chính). Kết quả ước lượng cho thấy hầu hết các yếu tố ảnh hưởng đến RRTK ngân hàng, trường hợp các quốc gia Đông Nam Á đều có ý nghĩa thống kê trong các mô hình RRTK khác nhau, tuy nhiên ảnh hưởng của RRTD, cung tiền và lạm phát trái với kỳ vọng của lý thuyết.
Hai là, dựa trên kết quả hồi quy đạt được, luận án khẳng định kết quả nghiên cứu tác động của yếu tố độ trễ thanh khoản, quy mô ngân hàng, chất lượng tài sản thanh khoản, vốn ngân hàng, dự phòng RRTD, thu nhập lãi thuần phù hợp với nhiều nghiên cứu trước. Quy mô ngân hàng tác động phi tuyến đến RRTK. Chiều hướng tác động của yếu tố chất lượng tài sản thanh khoản tùy thuộc vào biến sử dụng, nhìn chung đa số các biến tài sản thanh khoản tác động ngược chiều với RRTK. Điều này hàm ý, các ngân hàng dự trữ cấu trúc tài sản thanh khoản càng cao, RRTK càng thấp. Vốn ngân hàng tác động cùng chiều đến RRTK, điều này phù hợp với lý thuyết khả năng thay đổi, ngân hàng có vốn càng lớn có xu hướng ít dự trữ thanh khoản và RRTK cao hơn và ngược lại.
Ba là, yếu tố RRTD, cung tiền và lạm phát tác động khác biệt với giả thuyết nghiên cứu trong trường hợp các quốc gia Đông Nam Á. Dự phòng RRTD càng gia tăng nhằm đảm bảo an toàn cho các khoản tín dụng. Khoản dự phòng như khoản dự trữ nhằm đảm bảo rủi ro xảy ra và điều này tác động đến khả năng thanh toán của ngân hàng, RRTK được đảm bảo. Thu nhập từ lãi tăng làm gia tăng RRTK, điều này cho thấy các ngân hàng có tăng trưởng hoạt động tín dụng có xu hướng làm gia tăng nợ RRTK. Nếu có các cú sốc bất ngờ, ngân hàng sẽ rơi vào tình trạng thiếu thanh khoản và RRTK gia tăng. Điều này phù hợp với lý thuyết thương mại cho rằng hoạt động ngân hàng luôn chứa đựng rủi ro cao vì hoạt động cho vay thương mại rất rủi ro và điều này làm gia tăng RRTK. Chiều hướng tác động của lạm phát đến RRTK, tùy thuộc vào biến sử dụng. Nhưng nhìn chung, nếu nhìn thấy trước nguy cơ gia tăng lạm phát, các cơ quan sẽ có chính sách kiểm soát cung tiền và lạm phát, đồng thời yêu cầu các NHTM kiểm soát chặt chẽ trạng thái thanh khoản, đảm bảo hoạt động ngân hàng. Và vì vậy, các ngân hàng cần quan tâm các chính sách tiền tệ để có những chiến lược phòng ngừa RRTK khi NHTW thực thi chính sách thắt chặt để kiểm soát lạm phát hoặc chính sách mở rộng để hướng đến mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Các ngân hàng trường hợp các quốc gia Đông Nam Á phải đối mặt với nguy cơ RRTK cao hơn trong cuộc khủng hoảng tài chính.
Bốn là, kết quả nghiên cứu cho thấy các yếu tố Chất lượng tài sản thanh khoản, Vốn ngân hàng, rủi ro tín dụng, thu nhập lãi thuần, lạm phát, cung tiền đều ảnh hưởng đến RRTK ngân hàng trường hợp Việt Nam và chiều hướng ảnh hưởng của các yếu tố khá tương đồng so với nghiên cứu trường hợp các quốc gia Đông Nam Á. Riêng đối với trường hợp Việt Nam, kết quả nghiên cứu cũng chưa tìm thấy bằng chứng có ý nghĩa thống kê về tác động của khủng hoảng tài chính, tăng trưởng GDP, quy mô ngân hàng đối với RRTK. Kết quả nghiên cứu cho thấy, hoạt động ngân hàng tại Việt Nam không chịu ảnh hưởng bởi yếu tổ khủng hoảng tài chính có lẽ do hoạt động thị trường vốn ngân hàng Việt Nam chưa hòa nhập nên ít tác động. Vì vậy, để kiểm soát
RRTK các NHTM Việt Nam lưu ý nhiều đến việc tăng vốn chủ sở hữu có kiểm soát chặt chẽ, đa dạng hóa các nghiệp vụ huy động vốn và sử dụng vốn và đa dạng hóa các hình thức đầu tư nhằm kiểm soát rủi ro và nâng cao năng lực quản lý thanh khoản của các NHTM , đặc biệt tập trung những nghiệp vụ làm tăng tính thanh khoản của ngân hàng.
Tác động của RRTK đến HQHĐKD ngân hàng trường hợp các quốc gia Đông Nam Á:
Kết quả nghiên cứu đạt được một số nội dung quan trọng sau:
Một là, luận án đã cung cấp bằng chứng thực nghiệm cho thấy tác động của RRTK đến HQHĐKD ngân hàng trường hợp các quốc gia Đông Nam Á. Kết quả nghiên cứu cho thấy RRTK có tác động mạnh đến HQHĐKD ngân hàng tại các quốc gia Đông Nam Á. Tác động này âm hay dương phụ thuộc vào biến đo lường RRTK. Kết quả nghiên cứu cho thấy đa số các ngân hàng có HQHĐ kinh doanh đều chứa đựng RRTK cao, điều này phù hợp với lý thuyết đánh đổi giữa rủi ro và lợi nhuận. RRTK được đo lường bằng chênh lệch giữa các khoản tín dụng và huy động vốn chia cho tổng tài sản, Dư nợ tín dụng/Tổng tài sản, Dư nợ tín dụng/Tổng nguồn vốn huy động ngắn hạn đều cho thấy có tác động cùng chiều đến HQHĐKD ngân hàng với biến đo lường ROE và NIM với mức ý nghĩa 1%. Bên cạnh đó, bằng chứng còn cho thấy RRTK tác động ngược chiều đối với HQHĐKD ngân hàng khi dư nợ cho vay có xu hướng gia tăng. Tác động RRTK đến HQHĐKD ngân hàng được thấy rõ hơn qua yếu tố rủi ro tín dụng có tương quan âm với HQHĐKD ngân hàng. Điều này hàm ý chính sách, hầu hết các ngân hàng gia tăng dư nợ tín dụng đều chứa đựng rất nhiều rủi ro tín dụng và rủi ro tín dụng gián tiếp tác động đến RRTK, từ đó tác động lên HQHĐKD ngân hàng. Các nhà quản lý ngân hàng nên đặt công tác quản trị chất lượng lên hàng đầu và kiểm soát chặt chẽ các khoản vay.
Hai là, tác động của biến trễ HQHĐKD ngân hàng, chất lượng tài sản thanh khoản, quy mô ngân hàng, vốn ngân hàng, dự phòng RRTD, tăng trưởng GDP, cung tiền đến HQHĐKD ngân hàng phù hợp với giả thuyết nghiên cứu và tương đồng với các nghiên cứu trước đây. HQHĐ ngân hàng cũng nhạy cảm với các biến động của tài sản. Điều này hoàn toàn phù hợp với thực tế. Lợi nhuận ngân hàng không chỉ có được từ hoạt danh tiếng, cơ hội kinh doanh, mà một phần lớn sinh lợi từ quản trị rủi ro kỳ hạn của tài sản. Chất lượng tài sản thanh khoản càng cao, HQHĐKD ngân hàng càng cao. Điều này là do các ngân hàng thường dự trữ tài sản thanh khoản ở mức tối ưu để đảm bảo hoạt động kinh doanh nếu có các cú sốc xảy ra. Nếu như các ngân hàng dự trữ tài sản thanh khoản vượt quá mức tối ưu thì sẽ tác động làm giảm HQHĐKD do chi phí tăng nhanh hơn so với doanh thu.
Ba là, kết quả nghiên cứu tìm thấy mối quan hệ phi tuyến giữa quy mô ngân hàng và HQHĐKD ngân hàng. Điều này phù hợp với lý thuyết kinh tế theo quy mô, hiệu quả ngân hàng sẽ tăng theo quy mô đến một lúc nào đó quy mô gia tăng sẽ làm giảm HQHĐKD ngân hàng.
Bốn là, nghiên cứu phát hiện tăng vốn chủ sở hữu ngân hàng sẽ giúp cải thiện HQHĐKD ngân hàng. Điều này phù hợp với lý thuyết cấu trúc – hành vi – hiệu quả. Mô hình này cho rằng sự thay đổi trong cấu trúc thị trường hoặc mức độ tập trung ngân hàng ảnh hưởng đến hiệu quả ngân hàng, điều này cho thấy các công ty có quy mô lớn hiệu quả càng cao (Akhavein và cộng sự, 1997). Hay, vốn ngân hàng càng gia tăng sẽ cho phép các ngân hàng đa dạng hóa các sản phẩm và thị trường ngân hàng.
Năm là, kết quả nghiên cứu trường hợp Việt Nam khá tương đồng kết quả nghiên cứu trường hợp các quốc gia Đông Nam Á và các nghiên cứu trước đây. Nhìn chung, các biến nghiên cứu trường hợp các quốc gia Đông Nam Á có ý nghĩa cao hơn so với trường hợp Việt Nam. Nghiên cứu cho thấy quy mô ngân hàng tác động ngược chiều với HQHĐKD ngân hàng trong trường hợp Việt Nam, trong khi có tương quan phi tuyến trong trường hợp các quốc gia Đông Nam Á. Điều này cho thấy các ngân hàng Việt Nam gia tăng quy mô ngân hàng nhưng không cải thiện được HQHĐKD. Kết quả nghiên cứu này cho thấy hoạt động ngân hàng tại Việt Nam có những đặc thù khác với các nước. Các nhà quản trị ngân hàng Việt Nam cần chú ý thận trọng kiểm soát kế hoạch tăng quy mô ngân hàng theo quy định để cải thiện HQHĐKD ngân hàng, vì điều này có thể sẽ không hiệu quả mà có tác động tiêu cực đến HQHDKD ngân hàng. Điều này cũng có nhiều hàm ý cho các nhà hoạch định chính sách tại Việt Nam. HQHĐ kinh doanh ngân hàng Việt Nam không chịu tác động bởi yếu tố khủng hoảng tài chính có thể do thị trường tài chính Việt Nam chưa hội nhập sâu nhưng rất nhạy cảm với các biến động thị trường. Việc chính phủ theo đuổi mục tiêu kiểm soát lạm phát hay tăng trưởng đều có tác động đến HQHĐKD ngân hàng.
Kết quả nghiên cứu này có ý nghĩa quan trọng trong việc bổ sung bằng chứng thực nghiệm khá tin cậy về chiều hướng tác động của RRTK đến HQHĐKD ngân hàng, trường hợp các quốc gia Đông Nam Á và Việt Nam. Với góc độ nhà quản lý, nhà đầu tư, cơ quan giám sát, kết quả nghiên cứu này cũng góp phần định hướng điều hành, thực hiện chính sách lĩnh vực đầu tư, qua đó góp phần hạn chế RRTK, gia tăng HQHĐKD của các ngân hàng. Nếu xét trong dài hạn, nền tảng cho sự tăng trưởng và ổn định của hệ thống ngân hàng là dựa trên hiệu quả, khả năng sinh lời và hạn chế rủi ro của các ngân hàng. Vì thế, kết quả nghiên cứu của luận án là cơ sở tham khảo cho các nhà hoạch định chính sách, nhà quản lý, nhà đầu tư trong việc tăng cường hiệu quả NHTM và ổn định hệ thống tài chính.