Điều này có thể hạn chế người nghèo tiếp cận và sử dụng một số dịch vụ thiết yếu tại thời điểm thu nhập của họ giảm. Thứ tư, việc thay đổi lãi suất cũng như thay đổi giá tài sản ảnh hưởng đến phân phối thu nhập. Đặc biệt là lãi suất cao hơn, trong quá trình hội nhập tài chính, có tác động phân phối lại đáng kể, ảnh hưởng xấu đến người nghèo nhưng có ảnh hưởng tích cực đến người giàu.
Ngoài ra, các cuộc khủng hoảng khiến gia tăng tỷ lệ lạm phát gia và cách giải quyết tình trạng này cũng có thể ảnh hưởng đến người giàu và người nghèo khác nhau (Easterly & Fischer, 2001). Vì người nghèo thường nắm giữ tỷ lệ tài sản bằng tiền mặt nhiều hơn so với người có thu nhập trung bình và cao, nên họ có xu hướng bị ảnh hưởng nhiều hơn bởi tỷ lệ lạm phát gia tăng (đó là thuế đánh vào tiền mặt họ nắm giữ). Ngoài ra, vì tiền lương danh nghĩa không có mối tương quan hoàn hảo với chỉ số giá cả, lạm phát dẫn đến sự sụt giảm tiền lương thực tế. Điều này ảnh hưởng đến người nghèo nhiều hơn người giàu vì người nghèo không có tiền thuê vốn. Hơn nữa, thu nhập từ lao động chiếm một phần lớn hơn nhiều trong tổng thu nhập của họ.
Theo Lustig (2000), người nghèo dễ bị tổn thương bởi những cú sốc tiêu cực vì nhiều lý do. Họ có ít hoặc không có quyền tham gia vào các chương trình bảo hiểm xã hội công cộng vì phần lớn họ là lao động gia đình tự mướn hoặc không được trả lương. Ngay cả khi họ là người làm công ăn lương, họ vẫn thường làm việc cho những người chủ cố tình không tuân thủ những điều luật về bảo vệ quyền lợi người lao động hoặc không sẵn sàng trả cổ phần cho những đóng góp của họ. Ngoài ra, người nghèo có thể không được tiếp cận với bảo hiểm xã hội vì những hạn chế về tài chính và thậm chí cả về mặt xã hội hoặc pháp lý.
2.3.3. Tác động của hội nhập tài chính đến tình trạng đói nghèo thông qua kênh tín dụng và sự phát triển tài chính
Quá trình hội nhập tài chính có thể có một số ảnh hưởng sâu sắc đến việc tiếp cận nguồn tín dụng và dịch vụ tài chính của người nghèo. Chigumira & Masiyandima (2003) cho rằng những người vay và người gửi tiết kiệm có nhiều cơ hội tiếp cận nguồn tín dụng hơn so với trước đây. Nguyên nhân là bởi vì việc gỡ bỏ tài chính kiềm chế giúp tăng lãi suất, tăng tiết kiệm, tăng tiền gửi trong ngân hàng do đó các ngân hàng có thể cung cấp được nhiều khoản vay hơn. Hơn nữa, việc loại bỏ các rào cản gia nhập giúp tăng sự cạnh tranh giữa các trung gian tài chính và thúc đẩy họ phát triển các dịch vụ tài chính cho các bộ phận dân cư từng bị chối nhận các khoản vay trước đây (Chigumira & Masiyandima, 2003). Tuy nhiên, sự phát triển tài chính có thể không đem lại cơ hội tiếp cận vốn vay cho những người nghèo. Theo Chigumira & Masiyandima (2003), việc cho
người nghèo vay thường tốn kém hơn so với các công ty lớn, do chi phí xử lý, quản lý và giám sát cao hơn và rủi ro vỡ nợ cao hơn. Do đó, các ngân hàng thương mại có xu hướng cung cấp các khoản tín dụng cho các công ty uy tín hơn là cung cấp các khoản vay cho người nghèo ngay cả sau khi thực hiện chương trình tài chính toàn diện.
Người nghèo ở các nước đang phát triển có ít khả năng tiếp cận tín dụng vì một số lý do (Holden & Prokopenko, 2001). Thứ nhất, do sự bất ổn kinh tế vĩ mô hoặc sự thiếu hụt trong quy định và giám sát của các tổ chức tài chính. Ngoài ra, việc cung cấp các địa điểm gửi tiết kiệm có thể không đủ do chi phí cố định cao hoặc quy mô kinh tế thấp liên quan đến việc mở chi nhánh ngân hàng, đặc biệt là ở khu vực nông thôn. Thứ hai, đánh giá rủi ro tín dụng có thể khó khăn ở các nước đang phát triển, do sự bất ổn kinh tế vĩ mô, công tác kế toán kém làm sai lệch tình hình tài chính thực sự của người vay hoặc sự quản lý không đầy đủ của chính tổ chức tài chính, cũng có thể do việc thiếu một hệ thống tư pháp mạnh mẽ và những khó khăn trong thủ tục phá sản, hạn chế khả năng của người cho vay trong việc thu hồi nợ. Lý do thứ ba có thể là do quy định về giám sát của các tổ chức tài chính và cả các cơ quan chức năng của Nhà nước. Ở một số quốc gia, các chính sách cấp phép tự do dẫn đến một số lượng lớn các tổ chức yếu kém hình thành. Ở các quốc gia khác, các yêu cầu hạn chế làm giảm cạnh tranh và tăng sức mạnh của các tổ chức hiện có, dẫn đến sự gia tăng chênh lệch giữa lãi suất cho vay và tiền gửi.
Tác động của hội nhập tài chính đối với mức tín dụng và phân bổ tín dụng cho người nghèo cũng có thể xảy ra thông qua tác động đối với sự tương tác giữa thị trường tài chính chính thức và phi chính thức. Trên thực tế, ở các nước đang phát triển, luôn có sự tồn tại hoạt động của hệ thống tài chính không chính thức. Chính R. Mckinnon (1993) từng nhận định rằng: “chừng nào sự phát triển của hệ thống tài chính chính thức không đủ để đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế thì sự phát triển của hệ thống tài chính không chính thức như là sự bổ sung”. Như vậy, khu vực tài chính không chính thức thường có vai trò quan trọng hơn ở các quốc gia này và sẽ là không đầy đủ nếu chỉ đề cập đến khu vực chính thức. Bên cạnh đó, bởi vì người nghèo hoạt động chủ yếu trong khu vực không chính thức nên quá trình hội nhập tài chính sẽ chủ yếu giúp phát triển khu vực chính thức và gây bất lợi cho khu vực không chính thức, dẫn đến có thể gây tổn hại cho người nghèo.
Có thể bạn quan tâm!
- Các Chỉ Số Đo Lường Mức Độ Hội Nhập Tài Chính
- Tác Động Của Hội Nhập Tài Chính Đến Tình Trạng Đói Nghèo
- Mức Độ Kiềm Chế Tài Chính, Tiết Kiệm Và Đầu Tư
- Mức Độ Chuẩn Nghèo Theo Chỉ Số Khoảng Cách Nghèo Đói Và Tỷ Lệ Người Nghèo Tại Indonesia
- Thực Trạng Về Hội Nhập Tài Chính Của Các Nước Đang Phát Triển Khu Vực Châu Á
- Các Nguyên Tắc Chính Của Khuôn Khổ Hội Nhập Ngành Ngân Hàng Thương Mại
Xem toàn bộ 195 trang tài liệu này.
Lensink (1996) chỉ ra rằng hội nhập tài chính của khu vực chính thức có thể dẫn đến giảm tiết kiệm và do đó tăng số lượng đầu tư và giảm hiệu quả phân bổ vốn chung. Nhà nghiên cứu này chỉ ra rằng hiệu quả đầu tư không cải thiện sau các chương trình cải cách tài chính tập trung mạnh vào lĩnh vực tài chính chính thức hoặc các ngân hàng
thương mại. Phần lớn dân số ít hoặc không giao dịch với các tổ chức tiết kiệm và cho vay chính thức bởi vì người dân thấy không tiện lợi khi tiếp cận với các tổ chức này về số lượng địa điểm giao dịch cũng như những thủ tục cần thiết phải thực hiện. Hơn nữa, các vấn đề thông tin (thông tin không hoàn hảo, rủi ro đạo đức và các vấn đề thực thi) có thể nghiêm trọng trong lĩnh vực tài chính chính thức. Những người cho vay trong khu vực phi chính thức giải quyết những vấn đề này bằng cách cho vay một nhóm khách hàng cụ thể thường làm việc và sống trong cùng một khu vực. Vì người cho vay không chính thức có kiến thức về người vay tốt hơn người cho vay chính thức, nên có thể phân biệt tốt hơn giữa những người vay có rủi ro cao và thấp và có khả năng tính lãi suất phù hợp tốt hơn. Lợi thế thông tin này được áp dụng đặc biệt cho các dự án đầu tư nông thôn, vì ở khu vực nông thôn chỉ có một số ngân hàng không chính thức tồn tại. Do vậy, hội nhập tài chính có thể chuyển các quỹ từ khu vực không chính thức được thông tin tốt hơn sang khu vực chính thức nắm ít thông tin. Điều này sẽ làm giảm hiệu quả tổng thể của quá trình phân bổ vốn. Do đó, một chương trình hội nhập tài chính mà bỏ qua sự tồn tại của khu vực phi chính thức cuối cùng có thể dẫn đến kết quả tồi tệ hơn trong phân bổ nguồn lực và chất lượng đầu tư (Lensink, 1996). Rõ ràng, người nghèo sẽ không phải là người được hưởng lợi. Ngoài ra, trong trường hợp thiếu các cải cách khu vực tài chính về thể chế và các dịch vụ tài chính để đáp ứng nhu cầu tài chính của các doanh nghiệp nhỏ và người nghèo thì vẫn không đủ để cải thiện khả năng tiếp cận các dịch vụ tài chính và tín dụng của người nghèo.
Trong trường hợp quá trình hội nhập tài chính không cải thiện khả năng tiếp cận các dịch vụ tài chính và tín dụng của người nghèo, thì vai trò của các nhà hoạch định chính sách càng trở nên quan trọng trong việc đáp ứng một số yêu cầu để đảm bảo các dịch vụ tài chính sẵn sàng hơn cho mọi thành phần trong xã hội. Holden & Prokopenko (2001) nhấn mạnh rằng yêu cầu đầu tiên là thiết lập sự ổn định kinh tế vĩ mô, tuy nhiên đây không phải là điều kiện đủ. Một điều kiện khác là việc cần thiết lập một hệ thống các quy định về giám sát các tổ chức tài chính. Quy định về giám sát hiệu quả có thể đặc biệt quan trọng ở các nước đang phát triển vì nhu cầu xây dựng niềm tin của công chúng vào hệ thống tài chính cao hơn. Tuy nhiên, những hạn chế quá mức đối với các tổ chức tài chính có thể làm tăng chi phí hoạt động ở một số khu vực và do đó, có thể làm giảm khả năng thúc đẩy dịch vụ tài chính cho người nghèo. Để giảm bớt những khó khăn trong đánh giá mức độ rủi ro tín dụng, các tổ chức tài chính ở các nước đang phát triển cũng có thể xem xét sử dụng một số mô hình chấm điểm tín dụng đơn giản và nên thiết lập phòng thông tin tín dụng (cơ sở dữ liệu tập trung bao gồm thông tin tài chính về doanh
nghiệp), có thể giúp giảm các rủi ro tài chính do thị trường tài chính kém phát triển (Holden & Prokopenko, 2001).
Cuối cùng, vai trò của các tổ chức tài chính vi mô cần được nhấn mạnh trong việc tăng khả năng tiếp cận tín dụng cho những người nghèo. Các tổ chức này có lợi thế gần với thị trường khách hàng có nhu cầu khoản vay quy mô nhỏ và do đó có nhiều thông tin hữu ích về nhóm khách này. Các tổ chức tài chính vi mô bổ sung cho hệ thống tài chính chính thức bằng cách cung cấp dịch vụ cho các bộ phận xã hội gồm các hộ gia đình, các doanh nhân, các cá nhân mà có quyền hạn chế khi tiếp cận vào hệ thống chính thức do thu nhập thấp, không thường xuyên và không thể dự đoán trước (Holden & Prokopenko, 2001). Nói cách khác, mục đích của các tổ chức tài chính vi mô là giúp các bộ phận xã hội có hoàn cảnh khó khăn được tiếp cận với các dịch vụ tài chính hợp lý trong các hoạt động tạo thu nhập, tích lũy tài sản thông qua tiết kiệm, đồng thời cung cấp cho các hộ gia đình, cá nhân những hỗ trợ cần thiết để tránh được những rủi ro trong cuộc sống hàng ngày như bệnh tật, tệ nạn, thiên tai. Các tổ chức tài chính vi mô luôn tìm cách hỗ trợ người nghèo và luôn tìm cách trở thành chủ ngân hàng của người nghèo vì mục đích lợi nhuận hoặc phi lợi nhuận. Trong khi các tổ chức tài chính vi mô vì lợi nhuận luôn tìm cách để tối ưu hoá lợi nhuận thì các tổ chức tài chính vi mô phi lợi nhuận luôn tìm cách giúp đỡ người nghèo vì lòng nhân ái. Chigumira & Masiyandima (2003) báo cáo rằng sự xuất hiện của các tổ chức tài chính vi mô vào cuối những năm 1990 ở Zimbabwe đã giúp thu hẹp khoảng cách cho vay của người nghèo. Do phương pháp cho vay phù hợp và hiệu quả hơn và vị trí chiến lược của họ, các tổ chức này đã cung cấp tín dụng người nghèo và các doanh nghiệp vừa và nhỏ thành công hơn các ngân hàng thông thường. Các tác giả cho rằng việc thúc đẩy mối liên kết giữa các tổ chức tài chính chính thức và phi chính thức sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thiết kế các công cụ tiết kiệm đa dạng có tính đến nhu cầu đầu tư của người nghèo.
2.4. Kinh nghiệm về lộ trình hội nhập tài chính và quá trình giảm tình trạng đói nghèo của các nước đang phát triển trên thế giới
Chile, Indonesia và Thái Lan là ba quốc gia đang phát triển được lựa chọn làm điển hình nghiên cứu để xây dựng một số bài học kinh nghiệm trong lộ trình, phạm vi hội nhập tài chính và quá trình giảm tình trạng đói nghèo. Ở Chile, để đảm bảo tính an toàn và khả năng cạnh tranh của hệ thống tài chính trong nước, trong quá trình hội nhập tài chính, các cải cách về khu vực tài chính được thực hiện trước khi tự do hoá tài khoản vốn, trong khi đó cuộc khủng hoảng tiền tệ ở Thái Lan cho thấy quốc gia này đã quá “vội vàng” trong tiến trình hội nhập tài chính, cụ thể quá trình tự do hoá tài khoản vốn được thực hiện quá nhanh và không chú trọng đến việc thực hiện các cải cách quan trọng
một cách đồng bộ. Tương tự, Indonesia cũng đã có những sai lầm trong việc gỡ bỏ nhanh chóng các quy định tự do hoá dòng vốn trong quá trình hộp nhập tài chính khiến kinh tế tăng trưởng nóng vào những năm 1990-1991, để lại những hậu quả xấu về mặt kinh tế và xã hội. Từ kinh nghiệm về lộ trình và tốc độ của hội nhập tài chính và quá trình giảm tình trạng đói nghèo của Chile, Indonesia và Thái Lan, các quốc gia đang phát triển khu vực châu Á có thể rút ra các bài học hữu ích để hội nhập tài chính ngày một sâu rộng và có thể tránh các rủi ro tiềm ẩn. Trình tự của các cải cách của Chile và Indonesia trong giai đoạn 1985-1996, và Thái Lan trong giai đoạn 1985-1997 đối với các giao dịch trong và ngoài nước, được tóm tắt và mô tả trong các Bảng A8, A9, A10 (Phụ lục)
2.4.1. Lộ trình hội nhập tài chính và quá trình giảm tình trạng đói nghèo của Chile
Sau cuộc khủng hoảng ngân hàng diễn ra vào đầu những năm 1980 vì quá trình hội nhập tài chính diễn ra một cách nhanh chóng, Chile đã theo đuổi hướng tiếp cận hội nhập tài chính một cách thận trọng bằng việc tiến hành tự do hoá tài khoản vốn sau quá trình dần cải cách nền kinh tế. Trong giai đoạn 1985-1989, các cải cách tập trung vào việc hoàn thành tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại, hình thành các biện pháp kiểm soát tiền tệ gián tiếp, cải cách thương mại, tăng phạm vi giao dịch của các ngân hàng, thiết lập quyền tự chủ của Ngân hàng Trung ương Chile (CBC), và tự do hóa dòng vốn đầu tư trực tiếp và dòng vốn danh mục đầu tư. Các giai đoạn cải cách sau đó tập trung vào phát triển thị trường tài chính, áp dụng các chính sách lãi suất và tỷ giá linh hoạt hơn và nới lỏng có chọn lọc các kiểm soát đối với dòng vốn vào và ra, kèm theo việc áp dụng các biện pháp kiểm soát đối với một số dòng vốn vào nhất định vào năm 1991 và 1995.
Trong những năm 1990, giảm tình trạng đói nghèo là một trong những mục tiêu chính trong chiến lược phát triển ở Chile. Các chính sách xã hội nhằm hỗ trợ quá trình giảm đói nghèo được thực hiện trong bối cảnh hậu khủng hoảng hết sức khó khăn. Theo báo cáo WB (2004), năm 1982 và 1983, GDP của Chile đã giảm 16%. Sự suy yếu của lĩnh vực tài chính khiến người nộp thuế Chile thiệt hại từ 30 đến 40% GDP, tỷ lệ thất nghiệp tăng lên đến 30%, khoảng 50% dân số giảm thu nhập xuống mức nghèo khổ. Nghèo đói cùng cực đã ảnh hưởng đến 30% dân số. Bắt đầu từ năm 1985, trọng tâm của các chính sách kinh tế tập trung vào khả năng thanh khoản của hệ thống ngân hàng thương mại và tăng trưởng kinh tế, đã thúc đẩy xuất khẩu tăng nhanh và tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống. Tuy nhiên, tỷ lệ đói nghèo vẫn chưa được giảm đáng kể. Những người sống dưới mức nghèo khổ vẫn chiếm 45% dân số vào năm 1987. Ngoài ra, quyết định quan trọng của chính phủ đó là giảm thuế và chi tiêu của chính phủ vào năm 1988 đã có tác động tiêu cực hơn nữa đến các chính sách xã hội. Việc giảm chi tiêu xã hội tương đương
3% GDP, dẫn đến số lượng và chất lượng của các dịch vụ y tế công cộng bị giảm sút nghiêm trọng, lương người lao động và lương hưu cho người già thấp hơn (WB, 2004).
Cùng với sự ưu tiên phục hồi hệ thống ngân hàng thương mại sau cuộc khủng hoảng ngân hàng trong giai đoạn 1985-1987, các hoạt động trên thị trường vốn được thúc đẩy ở tốc độ vừa phải, các quỹ hưu trí được phép đầu tư một phần tài sản vào các cổ phiếu được chọn lọc trong nước bắt đầu từ năm 1985. Năm 1989, luật thiết lập quyền tự chủ hợp pháp của ngân hàng trung ương được ban hành bởi chính phủ. Cùng với đó, năm 1990, chính phủ mới đưa mục tiêu chống đói nghèo lên hàng đầu trong chương trình nghị sự. Chiến lược phát triển mới của Chile được thực thi bởi các chính sách tăng trưởng kinh tế, chính sách hội nhập tài chính và các chính sách xã hội tích cực. Chiến lược này đã giúp nền kinh tế Chile tăng trưởng 6% mỗi năm trong suốt thập kỷ. Theo báo cáo WB (2004), sự kết hợp giữa tăng trưởng cao và các chính sách tái phân phối tích cực đã làm giảm khoảng cách thu nhập giữa người nghèo và người giàu trong xã hội.
Trong quá trình hội nhập tài chính, các biện pháp liên quan đến tự do hoá tài khoản vốn được chọn lọc và ban đầu tập trung vào việc tự do hóa vốn dòng vào. Năm 1985, các sửa đổi đối với Chương XIX của các quy định ngoại hối đã cho phép dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào thông qua nghiệp vụ hoán đổi nợ/vốn chủ sở hữu. Tuy nhiên, vốn gốc từ các khoản đầu tư không được phép chuyển về chính quốc trong 10 năm và lợi nhuận không được phép chuyển về trong 4 năm. Cùng với đó, chính phủ thực hiện chuyển đổi các chương trình hỗ trợ thu nhập sang chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế thông qua việc tận dụng các nguồn lực từ quá trình hội nhập tài chính nhằm nâng cao trình độ giáo dục, kỹ năng và khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế đã tác động tích cực đến giảm tỷ lệ đói nghèo.
Trong giai đoạn từ năm 1985-1996, tỷ lệ người nghèo và khoảng cách nghèo đói tại Chile đều có xu hướng giảm đáng kể. Trong đó, tỷ lệ người nghèo với thu nhập 3.2 USD/ngày giảm hơn 15% từ năm 1987 đến năm 1996, nguyên nhân có thể là do thực hiện tăng trưởng kinh tế tốt do thực hiện tốt lộ trình hội nhập tài chính và do các chính sách xã hội hợp lý (World Bank, 2004).
30
25
20
15
10
5
0
1987
1990
1992
1994
1996
Khoảng cách nghèo đói (1.9 USD/ngày)
Tỷ lệ người nghèo (3.2 USD/ngày)
Khoảng cách nghèo đói (3.2 USD/ngày)
Tỷ lệ người nghèo (1.9 USD/ngày)
%
Hình 2.2. Mức độ chuẩn nghèo theo chỉ số khoảng cách nghèo đói và tỷ lệ
người nghèo tại Chile
Nguồn: World Bank
Tiếp đến, tài khoản vốn của cán cân thanh toán cho thấy sự tăng trưởng rõ rệt, ghi nhận thặng dư vào năm 1989 và đã phản ánh dòng vào vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng mạnh hơn nhiều. Năm 1989, chính sách tiền tệ được thắt chặt để bù đắp cho việc tăng tốc độ lạm phát và dòng vốn vào danh mục đầu tư tăng về cơ bản phản ánh sự khác biệt khoản lãi lớn. Trong bối cảnh này, các nhà chức trách đã từ bỏ chính sách trước đây về việc giảm giá thực tế của tỷ giá và mở rộng biên độ biến động tỷ giá.
Bắt đầu từ năm 1990, các nhà chức trách đã tập trung vào sự phát triển của thị trường tài chính trong nước. Một số biện pháp đã được thực hiện để mở rộng và nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh của thị trường chứng khoán gồm: giao dịch hợp đồng tương lai được đưa vào vào năm 1990, quỹ hưu trí có thể đầu tư nhiều hơn tài sản vào vốn cổ phần, và các hệ thống giao dịch và thanh toán dựa trên màn hình điện tử bắt đầu hoạt động trong 1993. Trong năm tiếp theo, thị trường chứng khoán bắt đầu đưa vào giao dịch quyền chọn, và trong giai đoạn 1995-1996, các hoạt động đầu tư của quỹ hưu trí trên thị trường chứng khoán địa phương đã được tăng mức độ tự do hoá.
Để đáp ứng với dòng vốn vào lớn trong năm 1990, các nhà chức trách bắt đầu tự do hóa dòng vốn ra. Năm 1991, lần đầu tiên người cư trú được phép sử dụng ngoại hối thu được trên thị trường không chính thức để đầu tư ra nước ngoài, và trong giai đoạn đầu tư tiếp theo, vốn đầu tư mà những người không cư trú có thể chuyển về chính quốc được rút ngắn xuống còn 3 năm. Năm 1992, các quỹ hưu trí được phép tự do nhưng có giới hạn về đầu tư ra nước ngoài và chuyển lợi nhuận và vốn thu được từ các khoản đầu
tư nước ngoài theo các điều kiện nhất định. Dòng vốn ròng vào năm 1991 đã giảm nhẹ do lãi suất giảm, nhưng phục hồi mạnh mẽ vào năm 1992.
Quá trình hội nhập tài chính trong giai đoạn 1993-1996 đã chứng kiến sự gia tăng của tốc độ tự do hóa tài khoản vốn, đặc biệt với dòng vốn ra, một số hạn chế nhất định đối với dòng vốn đầu tư vào cũng được tăng cường. Năm 1993, thời hạn tối thiểu mà vốn phải duy trì trong nước đã giảm từ ba đến một năm, và thời hạn chuyển lợi nhuận về Chile đã bị loại bỏ. Năm 1994, dòng vốn đầu tư ra nước ngoài được khuyến khích bằng cách cho phép các công ty bảo hiểm nhân thọ, quỹ hưu trí, ngân hàng và quỹ tương hỗ đầu tư danh mục ra nước ngoài với số phần trăm lớn hơn thông qua thị trường chính thức, cho phép các ngân hàng trong nước đầu tư vào các tổ chức tài chính ở nước ngoài, và cho phép các cá nhân tiếp cận thị trường ngoại hối chính thức với một số lượng giao dịch vốn được giới hạn. Dòng vốn ra đã được tự do hóa nhiều hơn trong giai đoạn 1995- 1996 bằng cách mở rộng tài sản cho phép và tăng hạn chế đầu tư nước ngoài.
Tài khoản vốn tổng thể của Chile được cải thiện với tổng số dòng vốn dịch chuyển lớn. Theo báo cáo WB (2004), dòng vốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài tăng lên 1,1 tỷ USD vào năm 1996, trong khi dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào trong nước tăng lên 4,1 tỷ USD.
Quá trình hội nhập tài chính của Chile được đánh giá là tuân theo một trình tự riêng biệt, với sự tập trung ban đầu vào việc hoàn thành tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại, cải cách thương mại, tự do hóa hệ thống tỷ giá và tự do hóa có chọn lọc dòng vốn vào. Sau đó, trọng tâm chuyển sang phát triển thị trường tiền tệ, trái phiếu và cổ phiếu trong nước. Tiến trình hội nhập tài chính cũng được kết hợp với sự phát triển các chính sách và công cụ của kinh tế vĩ mô đó là: các công cụ kiểm soát tiền tệ gián tiếp được tăng cường, chính sách tỷ giá được sửa đổi để cho phép tỷ giá biến động linh hoạt hơn. Dòng vốn ra đã được tự do hóa để đáp ứng với việc tăng trưởng cán cân thanh toán. Đồng thời, để tự do hóa dòng vốn ra và dòng vốn vào dài hạn, Chile đưa ra các biện pháp kiểm soát có chọn lọc đối với dòng vốn vào; tuy nhiên, các kiểm soát như vậy đã được nới lỏng dần.
2.4.2. Lộ trình hội nhập tài chính và quá trình giảm tình trạng đói nghèo của Indonesia
Trong giai đoạn này, Indonesia đã thực hiện rất tốt cả tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo. Theo báo cáo ADB (2002), trong hai thập kỷ trước cuộc khủng hoảng tài chính châu Á vào cuối những năm 1990, tăng trưởng kinh tế đạt trung bình 7% mỗi năm, cao hơn đáng kể so với tốc độ tăng trưởng trung bình là 3,7% của tất cả các nước