nghiệp mỗi tháng một buổi (trong giờ lao động quy định), Động viên HS tham gia có hiệu quả những buổi TVHN của nhà trường Phối hợp với GVCN hướng dẫn HS lựa chọn nghề; Tổ chức giới thiệu hoặc phối hợp với chi đoàn thanh niên tổ chức cho HS thảo luận về ý nghĩa, cơ sở khoa học của việc lựa chọn nghề.
Các trường cũng đã phổ biến những văn bản chỉ đạo, quy định, hướng dẫn của Bộ và Sở về hoạt động TVHN cho HS ở các trường THPT. Trên cơ sở đó, xây dựng được kế hoạch hoạt động TVHN đúng quy chế, đảm bảo tương đối đầy đủ về nội dung, phân phối chương trình và hình thức thực hiện.
Cán bộ lãnh đạo nhà trường quan tâm thực hiện kế hoạch hoạt động TVHN ở từng năm, học kì, tháng. Tình hình phân luồng HS sau tốt nghiệp THPT năm trước và đề ra nhiệm vụ TVHN cho năm sau có kết quả thực hiện khá tốt.
2.4.2. Hạn chế
Hoạt động TVHN và quản lí hoạt động TVHN cho HS ở các trường THPT miền Đông Nam Bộ đã đạt được những kết quả nhất định nhưng vì nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan mà công tác này vẫn tồn tại nhiều hạn chế, không theo kịp sự phát triển cả về lí luận và thực tiễn, chưa đáp ứng được yêu cầu hiện nay của xã hội trong công tác TVHN. Điển hình là:
Nhu cầu TVHN của HS rất cao, các em đã có những hiểu biết nhất định về thế giới nghề nghiệp và thị trường lao động. HS mong muốn tìm hiểu về những nội dung TVHN như tư vấn sự phù hợp giữa phẩm chất và kĩ năng với nghề dự định chọn, cách tự xác định nghề của bản thân theo 3 chỉ số cơ bản: hứng thú với nghề, có năng lực làm việc với nghề và đặc điểm tâm sinh lí phù hợp với tính chất, đặc điểm, nội dung của hoạt động nghề nghiệp. Tuy nhiên, HS chưa tiếp cận được sự TVHN chính thống và bài bản từ đội ngũ tư vấn viên, và chưa được nhà trường cung cấp đầy đủ thông tin về thị trường lao động, về thế giới nghề nghiệp, giúp HS hiểu về đặc điểm tâm, sinh lí, năng lực của chính các em..., giúp các em tháo gỡ sự lúng túng khi chọn nghề. Phần lớn công tác hướng nghiệp nói chung và TVHN nói riêng cho HS hiện nay được các trường THPT triển khai thông qua các giờ sinh hoạt chủ nhiệm, chào cờ đầu tuần, hoặc mời các trường CĐ, ĐH về tổ chức một vài buổi tư vấn tuyển sinh cho HS, hoặc tổ chức cho HS đi tham quan một vài trường đại học gần.
Nội dung TVHN chưa toàn diện do không được cập nhật mới và bổ sung hàng năm. Hình thức tư vấn hiện nay chủ yếu được thực hiện theo nhóm rất lớn (toàn trường hoặc một khối lớp) nên gần như không có tương tác thực sự với HS, trả lời hay giải đáp được các thắc mắc của HS. Quy trình TVHN hầu như không được 20 trường THPT miền Đông Nam Bộ áp dụng, quá trình tư vấn còn mang tính kinh nghiệm.
Kiến thức, kĩ năng về hướng nghiệp của CBQL và GV làm nhiệm vụ GDHN vừa thiếu, vừa yếu; GV TVHN hầu hết là GV các môn văn hóa kiêm nhiệm nên thiếu kiến thức, kĩ năng nghề và GDHN. Họ ít được đào tạo, tập huấn kiến thức, kĩ năng tư vấn về xu hướng phát triển nghề, về thế giới nghề nghiệp và kiến thức về một số nghề phổ biến, hay đặc điểm và yêu cầu của các nghề, hướng dẫn HS tìm hiểu sở thích, khả năng nghề nghiệp, đặc điểm, yêu cầu của nghề và rèn luyện kĩ năng thiết yếu.
Có thể bạn quan tâm!
- Kết Quả Đạt Được Từ Hoạt Động Tư Vấn Hướng Nghiệp Của Nhà Trường Thông Qua Sự Tự Tin Của Học Sinh
- Mức Độ Và Kết Quả Thực Hiện Việc Lập Kế Hoạch Tvhn Cho Hs Ở Các Trường Thpt Miền Đông Nam Bộ
- Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Quản Lí Hoạt Động Tư Vấn Hướng Nghiệp Cho Học Sinh Trung Học Phổ Thông Ở Các Tỉnh Miền Đông Nam Bộ
- Cơ Sở Xây Dựng Và Nguyên Tắc Đề Xuất Biện Pháp
- Biện Pháp 2. Xây Dựng Và Triển Khai Kế Hoạch Bồi Dưỡng Năng Lực Tư Vấn Hướng Nghiệp Cho Đội Ngũ Tư Vấn Hướng Nghiệp Trong Trường Trung Học Phổ
- Biện Pháp 4. Bổ Sung Quy Chế Về Quản Lí Hoạt Động Tư Vấn Hướng Nghiệp Cho Đội Ngũ Tham Gia Hoạt Động Tư Vấn Hướng Nghiệp Của Trường Trung Học
Xem toàn bộ 264 trang tài liệu này.
Nội dung quản lí hoạt động TVHN còn bộc lộ những hạn chế/yếu kém:
- Việc triển khai lập kế hoạch hoạt động TVHN còn mang tính hình thức, thực hiện theo khuôn mẫu, ít thay đổi, chưa chú trọng đến những yếu tố điều kiện cụ thể cho từng đơn vị. Lập kế hoạch là chức năng quản lí đầu tiên của quá trình quản lí hoạt động TVHN, có ảnh hưởng rất nhiều đến kết quả của các chức năng quản lí còn lại, tuy nhiên mức độ thực hiện và kết quả thực hiện của chức năng này ở các trường THPT miền Đông Nam Bộ lại bị đánh giá ở mức “yếu” với nhiều nội dung như: lập kế hoạch phát triển và bồi dưỡng đội ngũ CBQL, GV, CBĐTN tham gia TVHN cho trường; lập kế hoạch phối hợp TVHN giữa nhà trường với đoàn thể, với ban đại diện PH để hướng nghiệp cho các em hay xây dựng nội dung chi, định mức chi cho hoạt động TVHN.
- Tổ chức thực hiện hoạt động TVHN còn chung chung, thiếu sát sao và chưa đồng bộ: Chỉ chú trọng trong các buổi dạy theo số tiết quy định, sinh hoạt chung dưới sân cờ cho HS toàn trường, một số khâu tổ chức hoạt động TVHN chưa được các nhà quản lí quan tâm. Đặc biệt việc là nội dung theo dõi đánh giá tính hiệu quả của cơ cấu tổ chức TVHN; lựa chọn CBQL, GV nhiệt huyết, có năng lực, kinh nghiệm về TVHN để làm lực lượng nòng cốt; thực hiện các chế độ chính sách cho GV tham gia hoạt động TVHN: đãi ngộ, khen thưởng hay khuyến khích GV tự bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ TVHN không được nhiều trường thực hiện nên chất lượng,
hiệu quả của biện pháp này không thể tránh khỏi yếu kém.
- Chỉ đạo thực hiện hoạt động TVHN chưa được quan tâm đúng mức, chưa phát huy được các nguồn lực, điểm mạnh. Trong đó, chỉ đạo việc thực hiện các hình thức TVHN chưa gây được sự hứng thú cho HS, chưa có sự điều chỉnh hoạt động phối hợp giữa các GVCN, GVBM và GVGDKT để đạt hiệu quả GDHN, hoặc dự kiến các phương án TVHN thay thế dựa trên tiêu chuẩn hiệu quả hoạt động TVHN đã xác định.
- Công tác kiểm tra, đánh giá hoạt động TVHN còn bị xem nhẹ và mang tính đối phó: Nhiều trường không thực hiện việc kiểm tra, đánh giá và thiếu cơ sở thực tế để đánh giá vì lãnh đạo không dự giờ, không kiểm tra hoạt động thực tế của GV làm công tác này. Chưa xây dựng được tiêu chí đánh giá rõ ràng, hiệu quả nên chưa thực hiện tốt khâu nhắc nhở, động viên, khuyến khích GV trong công tác kiểm tra đánh giá. Hoạt động TVHN chưa được điều chỉnh, tổng kết, đánh giá một cách hiệu quả.
2.4.3. Nguyên nhân
Tất cả những hạn chế của quản lí hoạt động TVHN cho HS ở các trường THPT miền Đông Nam Bộ bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân. Cụ thể là:
- Một là, nhà trường tổ chức hoạt động TVHN chưa đáp ứng nhu cầu TVHN cho HS: Hoạt động TVHN ở các trường THPT miền Đông Nam Bộ hiện nay chưa thực sự “đóng vai trò chủ đạo” nhằm hướng dẫn và chuẩn bị cho thế hệ trẻ cả về tâm thế và kĩ năng để các em có thể sẵn sàng đi vào lao động hoặc tự tạo việc làm ở các ngành nghề xã hội đang cần phát triển, đồng thời phù hợp với hứng thú, năng lực của cá nhân của HS. Những buổi TVHN được tổ chức gần kì thi chỉ giải đáp những băn khoăn của HS về những quy chế, đổi mới của kì thi THPT quốc gia thủ tục xét tuyển, chưa có nhiều định hướng về đặc điểm, tính chất và xu hướng của ngành nghề đó trong tương lai.
Hai là, hiệu trưởng thiếu sâu sát trong lập kế hoạch, chỉ đạo và tổ chức hoạt động TVHN. Dường như TVHN không có trong kế hoạch chỉ đạo chuyên môn của trường. Công tác lập kế hoạch chỉ do một hoặc một vài người chịu trách nhiệm mà chưa thấy được vai trò chỉ đạo của hiệu trưởng, thiếu sự đóng góp ý kiến của các bộ phận giáo dục như GVBM, GV dạy nghề, GV dạy công nghệ và tổ chức Đoàn thể.
Lập kế hoạch là nhiệm vụ khởi đầu mang tính quyết định mà mỗi hiệu trưởng cần làm theo từng cấp quản lí để thấy được những điểm mạnh, điểm yếu của nhà trường cũng như các cơ hội, cản trở từ bên ngoài đối với nhiệm vụ TVHN cũng như các nguồn lực cần thiết để thực hiện quản lí hoạt động TVHN. Từ đó, đưa ra được định hướng và đưa ra các biện pháp cần thiết để đạt được mục tiêu TVHN.
Ba là, hiệu trưởng chưa quan tâm đến đào tạo, bồi dưỡng và phát triển nguồn lực trong hoạt động TVHN: Tuy nhu cầu TVHN của HS rất cao nhưng mức độ đáp ứng nhu cầu này thì chưa đủ vì hầu hết các hoạt động tư vấn trong thời gian qua chưa đạt hiệu quả, chủ yếu là do GV trong nhà trường phổ thông hiện nay bên cạnh làm tốt nhiệm vụ của người GV, thì chưa thật sự có đầy đủ những kiến thức và năng lực TVHN để trợ giúp HS những khi cần thiết.
Bốn là, hiệu trưởng chưa thật sự thực hiện tốt việc kiểm tra, đánh giá công tác TVHN và thiếu sự giám sát trong khi thực hiện chức năng này để từ đó ra quyết định và có biện pháp điều chỉnh kịp thời, giúp “con tàu” hướng nghiệp được đảm bảo luôn đi đúng “đường ray” để tới đích.
Năm là, hiệu trưởng chưa hỗ trợ và tạo động lực cho các tác nhân tham gia TVHN, đồng thời khuyến khích mọi người phát huy cao độ cũng như chưa quan tâm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ làm công tác TVHN. Các trường phổ thông hiện nay không có biên chế chính thức làm công tác TVHN nên HS và GV không có được sự trợ giúp cần thiết về chuyên môn. Các chuyên gia/đội ngũ làm tư vấn không được đào tạo bài bản. Đội ngũ cán bộ tư vấn đa phần làm theo nhiệm vụ phân công vì thiếu tiết hay kiêm nhiệm, bản thân họ không được đào tạo hay ít tập huấn về TVHN. Vì thế, một số thầy cô chưa thực sự tâm huyết, đi sâu vào hoạt động mới mẻ này, nhất là khi GVCN, GVBM mất khá nhiều thời gian cho công việc chuyên môn và các công việc hồ sơ, sổ sách. Sự tư vấn cho HS chỉ theo bản năng và kinh nghiệm cá nhân nên nội dung TVHN không có chiều sâu, không bài bản, hiệu quả thấp. GV cũng chưa cập nhật thường xuyên kiến thức, thông tin thị trường lao động, và ngành nghề theo xu hướng xã hội, dẫn đến thông tin TVHN còn hạn chế, nghèo nàn. Không ít CBQL và GV vẫn còn tư tưởng xem nhẹ hoạt động TVHN so với các bộ môn văn hóa nên chưa dành sự quan tâm, đầu tư thích đáng cho hoạt động này.
Những nguyên nhân này chính là cơ sở thực tiễn để các biện pháp quản lí hoạt động TVHN cho HS trường THPT miền Đông Nam Bộ được đề xuất trong Chương 3.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Trên cơ sở lí luận đã đúc kết về quản lí hoạt động TVHN cho HS THPT ở Hình 1.1, trong Chương 2, trưng cầu ý kiến 35 CBQL, 462 GV và 2366 HS đã được tiến hành nhằm xác định thực trạng hoạt động TVHN và quản lí hoạt động TVHN ở 20 trường THPT miền Đông Nam Bộ. Căn cứ vào kết quả điều tra bằng bảng hỏi và phỏng vấn, qua phân tích đã rút ra các kết luận sau:
Quản lí hoạt động TVHN là một trong những nội dung cơ bản của công tác quản lí giáo dục ở trường THPT. Nhận thức rõ vị trí, vai trò quan trọng của hoạt động này nên các trường THPT miền Đông Nam Bộ đã dành sự quan tâm và cũng đạt được những kết quả nhất định. Các trường THPT đã thực hiện những quy định của ngành GD&ĐT về TVHN cho HS. Các nét đặc thù của quản lí hoạt động TVHN cho HS THPT ở miền Đông Nam Bộ được bộc lộ ở thực trạng là: các trường đều thường lập kế hoạch TVHN nhưng kết quả thực hiện của chức năng này ở các trường THPT miền Đông Nam Bộ chưa được đánh giá cao; Mức độ thực hiện công tác tổ chức hoạt động TVHN không đồng đều, không ổn định; Chức năng chỉ đạo thực hiện hoạt động TVHN ở các trường THPT miền Đông Nam Bộ được diễn tiến khá bài bản, nhưng các trường thực hiện theo thói quen, kinh nghiệm. Chức năng kiểm tra, đánh giá của hiệu trưởng còn yếu. Nhận thức của hiệu trưởng, CBQL, GV và HS về vai trò, tầm quan trọng về hoạt động TVHN còn bị xem nhẹ hoặc chưa được quan tâm thấu đáo; Quá đề cao về “Xu hướng lựa chọn nghề của HS”; 06 yếu tố ảnh hưởng còn lại biểu hiện ý kiến không đồng nhất cao giữa GV, CBQL và HS, nhưng thể hiện đúng thực tế về sự ảnh hưởng đến quản lí hoạt động TVHN của đối tượng quản lí và đối tượng được quản lí. Công tác quản lí hoạt động TVHN vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế cần được khắc phục, cụ thể là:
Một là, nhu cầu TVHN của HS rất cao nhưng chưa được nhà trường cung cấp đầy đủ thông tin về thị trường lao động, về thế giới nghề nghiệp nhằm giúp HS hiểu về đặc điểm tâm, sinh lí, năng lực của chính các em..., giúp các em tháo gỡ sự lúng túng khi chọn nghề, chưa giúp HS có những hiểu biết về nghề nghiệp để định hướng phát triển, lựa chọn ngành nghề phụ hợp với năng lực bản thân và nhu cầu xã hội. Bên cạnh đó, nội dung TVHN chưa toàn diện do không được cập nhật mới và bổ sung
hàng năm. Hình thức tư vấn hiện nay chủ yếu được thực hiện theo nhóm rất lớn nên gần như không có tương tác thực sự với HS, trả lời hay giải đáp được các thắc mắc của HS. Quy trình TVHN hầu như không được 20 trường THPT miền Đông Nam Bộ áp dụng, quá trình tư vấn còn mang tính kinh nghiệm. Hơn nữa, kiến thức, kĩ năng về hướng nghiệp của CBQL và GV làm nhiệm vụ GDHN vừa thiếu, vừa yếu và ít được đào tạo, tập huấn.
Hai là, lập kế hoạch quản lí hoạt động TVHN đã được thực hiện nhưng chưa mang lại hiệu quả. Việc tổ chức hoạt động TVHN tại thời gian điều tra chỉ được đánh giá ở mức trung bình và yếu, một số chức năng quản lí chưa được CBQL quan tâm chú trọng thực hiện. Công tác chỉ đạo hoạt động này chưa phát huy được các nguồn lực, thế mạnh. Và kiểm tra, đánh giá hoạt động TVHN ở các trường còn bị buông lỏng, chưa được áp dụng một cách triệt để, đồng bộ. Bên cạnh đó, quản lí hoạt động này chỉ dựa trên khả năng và kinh nghiệm của mỗi cá nhân và trường, không tuân theo quy trình thống nhất; Nhà trường chưa thật sự khuyến khích, động viên, khen thưởng và có những chế độ ưu tiên cho những GV thực hiện hoạt động TVHN; Trình độ, năng lực TVHN của GV còn nhiều hạn chế. Cơ sở vật chất, kinh phí phục vụ cho tổ chức hoạt động TVHN còn thiếu thốn. Đây là những yếu tố ảnh hưởng rất lớn trong quá trình tổ chức và quản lí hoạt động TVHN cho HS.
Nguyên nhân cơ bản dẫn đến bất cập, hạn chế trên trong quản lí hoạt động TVHN của hiệu trưởng là: Nhà trường chưa đáp ứng nhu cầu TVHN cho HS. Hiệu trưởng thiếu sâu sát trong lập kế hoạch, chỉ đạo và tổ chức hoạt động TVHN. Hiệu trưởng chưa quan tâm đến đào tạo, bồi dưỡng và phát triển nguồn lực trong hoạt động TVHN. Hiệu trưởng chưa tập trung thực hiện kiểm tra, đánh giá theo quy trình TVHN và thiếu sự giám sát trong khi thực hiện chức năng này. Nhà trường chưa thật sự và kịp thời động viên, khích lệ, khen thưởng và có những chế độ ưu tiên cho những GV thực hiện hoạt động TVHN. Những nguyên nhân này chính là cơ sở thực tiễn để đề xuất các biện pháp quản lí hoạt động TVHN cho HS trường THPT miền Đông Nam Bộ trong Chương 3.