& Trần Thị Phương Mai (2015), nghiên cứu của Nguyễn Đăng Tùng & Bùi Thị Len (2015) xem xét các yếu tố tác động đến sự ổn định tài chính của NHTM Việt Nam. Trong khi, các nghiên cứu khác của Phan Thị Thơm và Thân Thị Thu Thủy (2015), Võ Xuân Vinh và Dương Thị Ánh Tiên (2017) lại xem xét các yếu tố tác động đến năng lực canh tranh của NHTM Việt Nam.
Thêm vào đó, chưa có nghiên cứu cập nhật cho các NHTM Việt Nam tới thời điểm mới nhất năm 2016. Các nghiên cứu trước cũng chưa đánh giá tác động trong các điều kiện khác nhau như điều kiện bình thường và điều kiện có khủng hoảng. Ngoài ra, phần lớn các nghiên cứu trước đánh giá các yếu tố nội tại của ngân hàng đến một trong hai khía cạnh cạnh tranh hoặc ổn định tài chính mà chưa kết hợp với việc đánh giá các yếu tố vĩ mô bên ngoài.
Do đó, luận án này mang tính cấp thiết, có ý nghĩa bổ sung các bằng chứng thực nghiệm đồng thời củng cố thêm cơ sở lý thuyết về tác động của cạnh tranh tới sự ổn định tài chính của các NHTM. Luận án đánh giá tác động của cạnh tranh tới sự ổn định của ngân hàng thương mại tại Việt Nam cho giai đoạn cập nhật từ 2008 - 2016. Đồng thời, luận án cũng xem xét tác động này trong điều kiện khủng hoảng tài chính 2008, 2009.
Kết quả nghiên cứu cũng sẽ là cơ sở để giúp cho những nhà hoạch định chính sách cùng các bên liên quan có thể hiểu rõ hơn về tác động của cạnh tranh tới sự ổn định tài chính của các ngân hàng, từ đó có những chiến lược và giải pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh, đồng thời đảm bảo sự ổn định tài chính của các NHTM Việt Nam.
1.2. Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát của luận án là nghiên cứu tác động của cạnh tranh đến sự ổn định tài chính của các NHTM Việt Nam thông qua kiểm định mối quan hệ "cạnh tranh - ổn định" và "cạnh tranh – dễ vỡ". Từ kết quả nghiên cứu, luận án cũng sẽ thảo luận những hàm ý chính sách nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và đảm bảo sự ổn định tài chính của các NHTM Việt Nam.
Có thể bạn quan tâm!
- Tác động của cạnh tranh tới sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam - 1
- Tác động của cạnh tranh tới sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam - 2
- Cơ Sở Lý Thuyết Về Ổn Định Tài Chính Của Các Nhtm
- Phương Pháp Đo Lường Ổn Định Tài Chính Và Bất Ổn Tài Chính
- Tác Động Của Kỳ Hạn Nợ Dài Hơn Và Mức Độ Giữ Tiền Mặt Nhiều Hơn Tới Sự Ổn Định Của Ngân Hàng
Xem toàn bộ 156 trang tài liệu này.
thể:
Để đạt được mục tiêu tổng quát, luận án sẽ lần lượt giải quyết ba mục tiêu cụ
Đo lường mức độ cạnh tranh và phân tích các yếu tố tác động đến mức độ
cạnh tranh của các NHTM Việt Nam.
Đo lường mức độ ổn định tài chính và phân tích các yếu tố tác động đến mức độ ổn định tài chính của các NHTM Việt Nam.
Kiểm định tác động của cạnh tranh tới sự ổn định tài chính của các NHTM Việt Nam thông qua kiểm định 2 giả thuyết: “cạnh tranh - ổn định” và “cạnh tranh – dễ vỡ”.
Câu hỏi nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, luận án trả lời các câu hỏi nghiên cứu sau:
Mức độ cạnh tranh của các NHTM Việt Nam trong giai đoạn 2008-2016 như thế nào?
Các yếu tố nào tác động đến mức độ cạnh tranh của các NHTM Việt
Nam?
Mức độ ổn định tài chính của các NHTM Việt Nam trong giai đoạn 2008-
2016 như thế nào?
Các yếu tố nào tác động đến mức độ ổn định tài chính của các NHTM Việt Nam?
Tác động của cạnh tranh tới sự ổn định tài chính của các NHTM Việt Nam ủng hộ giả thuyết: “cạnh tranh - ổn định” hay “cạnh tranh – dễ vỡ”?
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận án là tác động của cạnh tranh tới sự ổn định tài chính của NHTM. Trong đó, mức độ cạnh tranh được đại diện bằng chỉ số Lener và ổn định tài chính được đại diện bằng mức độ rủi ro phá sản của ngân hàng thông qua chỉ số Z-score dựa trên cơ sở lý thuyết và các nghiên cứu có liên quan.
Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu giới hạn ở 24 ngân hàng thương mại cổ phần tại Việt Nam. Thời gian nghiên cứu là giai đoạn 2008-2016. Theo thống kê
của Ngân hàng Nhà nước tại thời điểm 31/12/2016, số NHTM là 35 ngân hàng. Tuy nhiên một số ngân hàng không có đủ dữ liệu trong giai đoạn nghiên cứu nên để đảm bảo cho dữ liệu bảng cân bằng, tác giả lựa chọn 24 NHTM có đầy đủ dữ liệu (phụ lục 1). Theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước tại thời điểm 31/12/2016, tổng tài sản của 35 NHTM là 7.919.726 tỷ đồng. Trong khi, tổng tài sản của 24 NHTM được tác giả sử dụng tại thời 31/12/2016 là 5.731.649 tỷ đồng, chiếm 72% tổng tài sản của các NHTM. Như vậy, 24 NHTM được tác giả lựa chọn đảm bảo đại diện cho các NHTM tại Việt Nam.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên số liệu Báo cáo tài chính, báo cáo thường niên, bản cáo bạch của các NHTM Việt Nam từ 2008 – 2016, tác giả xây dựng chỉ số cạnh tranh Lerner được đo lường theo công thức của Abba Lerner (1934) để ước tính và so sánh mức độ cạnh tranh của các NHTM Việt Nam trong giai đoạn 2008 – 2016. Tiếp theo đó, luận án kế thừa phương pháp tính toán Z-score cho các ngân hàng được sử dụng trong các nghiên cứu của Boyd & Graham (1986), Hannan & Hanweck (1988), Boyd & ctg (1993) nhằm đo lường mức độ ổn định tài chính của các NHTM Việt Nam. Sau đó, nghiên cứu sử dụng các mô hình được đề xuất bởi Raúl Osvaldo Fernández et al (2015) nhằm kiểm định mối quan hệ giữa cạnh tranh và ổn định tài chính của các NHTM Việt Nam . Để khắc phục hiện tượng nội sinh tiềm ẩn trong mô hình, tác giả sử dụng kỹ thuật biến công cụ với ước lượng DGMM, nhằm tìm kiếm bằng chứng về tác động của cạnh tranh đến sự ổn định tài chính của ngân hàng thương mại Việt Nam trong điều kiện bình thường và trong điều kiện khủng hoảng
1.5. Đóng góp của luận án
Những đóng góp chính của luận án bao gồm:
Đóng góp về mặt khoa học: Luận án sẽ bổ sung các bằng chứng thực nghiệm về mức độ cạnh tranh và sự ổn định tài chính của các NHTM tại Việt Nam trong giai đoạn 2008 – 2016, đồng thời đánh giá và kiểm định mối quan hệ “cạnh tranh - ổn định” và “cạnh tranh – dễ vỡ” cho hệ thống các NHTM Việt Nam. Đây là nghiên cứu mới tại Việt Nam khi đa số các đề tài hiện nay chủ yếu tập trung nghiên
cứu và đánh giá riêng lẻ về năng lực cạnh tranh của các NHTM Việt Nam hoặc mức độ ổn định tài chính của NHTM Việt Nam. Trong khi các nghiên cứu sâu và cụ thể, mang tính định lượng về tác động của cạnh tranh đến sự ổn định tài chính của các NHTM Việt Nam còn rất hạn chế. Bên cạnh đó, mặc dù một số nghiên cứu hiện có trên thế giới đã đánh giá tác động của cạnh tranh tới sự ổn định tài chính, nhưng phần lớn là các nghiên cứu cho các nước phát triển như Châu Âu và Châu Mỹ. Luận án là công trình nghiên cứu mới, cập nhật cho hệ thống NHTM Việt Nam giai đoạn 2008 – 2016, một đại diện cho quốc gia đang phát triển hoặc là thị trường cận biên (frontier market) trong đó hệ thống tài chính phát triển chủ yếu dựa trên hệ thống ngân hàng.
Đóng góp về mặt thực tiễn: kết quả phân tích sẽ giúp các NHTM Việt Nam hiểu rõ hơn về hiện trạng mức độ cạnh tranh, mức độ ổn định, các nhân tố tác động, chiều hướng và mức độ tác động của cạnh tranh tới sự ổn định tài chính của các NHTM Việt Nam giai đoạn 2008 – 2016, từ đó có những chiến lược và giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh và đảm bảo sự ổn định tài chính.
Đồng thời, kết quả nghiên cứu cũng sẽ giúp các cơ quan quản lý đánh giá rõ hơn về mức độ cạnh tranh, sự ổn định tài chính và tác động của cạnh tranh tới sự ổn định tài chính trong điều kiện bình thường và trong điều kiện có khủng hoảng, từ đó có những chính sách điều hành phù hợp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM Việt Nam và góp phần đảm bảo sự ổn định về tài chính của các NHTM tại Việt Nam.
1.6. Cấu trúc luận án
Kết cấu của luận án gồm có 5 chương
Chương 1: Giới thiệu tổng quan về nghiên cứu
Trình bày tổng quan về đề tài nghiên cứu bao gồm bối cảnh thực hiện và lý do chọn đề tài, mục tiêu nghiên cứu, câu hỏi nghiên cứu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, đóng góp của luận án và kết cấu của luận án.
Chương 2: Cơ sở lý thuyết và bằng chứng thực nghiệm về cạnh tranh ngân hàng, sự ổn đinh tài chính và tác động của cạnh tranh đến ổn định tài chính
Đưa ra các lý thuyết và lược khảo các nghiên cứu liên quan đã được thực hiện để hình thành mô hình nghiên cứu và phát triển các giả thiết nghiên cứu.
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu và dữ liệu nghiên cứu Trình bày phương pháp nghiên cứu và mô tả dữ liệu nghiên cứu.
Chương 4: Phân tích thực nghiệm về cạnh tranh ngân hàng, sự ổn đinh tài chính và tác động của cạnh tranh đến ổn định tài chính của các NHTM Việt Nam giai đoạn 2008 – 2016
Trình bày kết quả nghiên cứu về cạnh tranh ngân hàng, sự ổn đinh tài chính và tác động của cạnh tranh đến ổn định tài chính của các NHTM Việt Nam giai đoạn 2008 – 2016
Chương 5: Kết luận và hàm ý chính sách
Trình bày kết luận chính của luận án và đưa ra các hàm ý chính sách.
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ BẰNG CHỨNG THỰC NGHIỆM VỀ CẠNH TRANH NGÂN HÀNG, SỰ ỔN ĐỊNH TÀI CHÍNH VÀ TÁC ĐỘNG CỦA CẠNH TRANH ĐẾN ỔN
ĐỊNH TÀI CHÍNH
2.1. Cơ sở lý thuyết.
2.1.1. Cơ sở lý thuyết về cạnh tranh NHTM
2.1.1.1. Khái niệm
Từ khi nền kinh tế hàng hóa xuất hiện thì đã có cạnh tranh và cạnh tranh đã đi cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa theo thời gian. Rất nhiều nhà kinh tế đã nghiên cứu về cạnh tranh và cũng có rất nhiều khái niệm về cạnh tranh. Cạnh tranh trong kinh doanh là hoạt động ganh đua giữa những người sản xuất hàng hóa, giữa các thương nhân, các nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, bị chi phối bởi quan hệ cung - cầu, nhằm giành các điều kiện sản xuất, tiêu thụ, thị trường có lợi nhất.
Theo Porter (1998), cạnh tranh là giành lấy thị phần. Bản chất của cạnh tranh là tìm kiếm lợi nhuận, là khoản lợi nhuận cao hơn mức lợi nhuận trung bình mà doanh nghiệp đang có. Kết quả quá trình cạnh tranh là sự bình quân hóa lợi nhuận trong ngành theo chiều hướng cải thiện sâu dẫn đến hệ quả giá cả có thể giảm đi (1980).
Samuelson và Nordhaus (1985) cho rằng cạnh tranh là sự kình địch giữa các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau để giành khách hàng hoặc thị trường
Theo Smith (1776), lợi thế cạnh tranh dựa trên lợi thế tuyệt đối về năng suất lao động. Năng suất lao động cao có nghĩa là chi phí sản xuất giảm.
Theo Porter (1980), lợi thế cạnh tranh trước hết dựa vào khả năng duy trì một chi phí sản xuất thấp và sau đó là dựa vào sự khác biệt hóa sản phẩm so với đối thủ cạnh tranh.
Christensen (2010) cho rằng lợi thế cạnh tranh là bất cứ giá trị nào mà một doanh nghiệp cung cấp nhằm thúc đẩy khách hàng mua sản phẩm hoặc dịch vụ của
họ hơn là sản phẩm, dịch vụ của đối thủ cạnh tranh và tạo rào cản đối với đối thủ tiềm năng và hiện tại
Lợi thế cạnh tranh có thể được định nghĩa là lợi thế mà một doanh nghiệp có được trong khi các doanh nghiệp khác không có được, lợi thế cạnh tranh này có thể nằm ngay bên trong doanh nghiệp hoặc bên ngoài doanh nghiệp.
Trong những thập niên gần đây, khái niệm năng lực cạnh tranh đã được đề cập đến và được xem xét ở nhiều cấp độ khác nhau ví dụ như: năng lực cạnh tranh giữa các quốc gia, năng lực cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh giữa các sản phẩm dịch vụ...
Theo diễn đàn kinh tế thế giới (WEF): năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được hiểu là khả năng duy trì và mở rộng thị phần, thu lợi nhuận của doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh (trong nước và ngoài nước). Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện qua hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, lợi nhuận và thị phần của doanh nghiệp có được.
Kazarenkova (2006) định nghĩa năng lực cạnh tranh ngân hàng là khả năng thực tế cũng như tiềm năng của một tổ chức tín dụng để tạo ra và phát triển những sản phẩm dịch vụ mang tính cạnh tranh cao trên thị trường nhằm xây dựng hình ảnh tích cực của một ngân hàng hiện đại đáng tin cậy trong việc đáp ứng các nhu cầu từ phía khách hàng.
Theo Nguyễn Thị Quy (2008), năng lực cạnh tranh của một ngân hàng là khả năng ngân hàng đó tạo ra, duy trì và phát triển những lợi thế nhằm duy trì và mở rộng thị phần; đạt được mức lợi nhuận cao hơn mức trung bình của ngành và liên tục tăng, đồng thời đảm bảo hoạt động an toàn và lành mạnh, có khả năng chống đỡ và vượt qua những biến động bất lợi của môi trường kinh doanh.
Nguyễn Thanh Phong (2010) định nghĩa năng lực cạnh tranh của NHTM là khả năng do chính ngân hàng tạo ra trên cơ sở duy trì và phát triển những lợi thế vốn có, nhằm củng cố và mở rộng thị phần; gia tăng lợi nhuận và có khả năng chống đỡ và vượt qua những biến động bất lợi của môi trường kinh doanh.
Gorditsa (2012) cho rằng năng lực cạnh tranh của các NHTM trong điều kiện hiện đại được xác định bởi mức độ đáp ứng của nó đối với các nhu cầu của khách hàng và tỷ lệ gia tăng khách hàng của ngân hàng.
Tóm lại, năng lực cạnh tranh của NHTM là khả năng ngân hàng đó tạo ra, duy trì và phát triển những lợi thế nhằm củng cố và mở rộng thị phần; gia tăng lợi nhuận và có khả năng chống đỡ và vượt qua những biến động bất lợi của môi trường kinh doanh.
2.1.1.2. Tính đặc thù trong cạnh tranh của các NHTM
Nhìn chung, cạnh tranh giữa các NHTM có những điểm tương đồng với sự cạnh tranh của các tổ chức kinh tế khác trong nền kinh tế. Tuy nhiên, cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng có những điểm khác biệt với cạnh tranh trong các lĩnh vực khác do tính chất đặc thù trong hoạt động kinh doanh tiền tệ của các NHTM.
Thứ nhất, cạnh tranh ngân hàng dựa trên uy tín thương hiệu và sự cảm nhận. Có rất ít sự khác biệt về sản phẩm cốt lõi giữa các ngân hàng do sản phẩm mà các NHTM cung cấp cho khách hàng là dạng dịch vụ, vô hình, đồng nhất, dễ bị sao chép. Chính sách lãi suất thường chịu sự giám sát chặt chẽ của Ngân Hàng Nhà Nước, do đó cạnh tranh về giá (lãi suất và phí) hầu như bị kiểm soát rất chặt. Vì vậy, cạnh tranh giữa các ngân hàng chủ yếu dựa vào uy tín, thương hiệu, cảm nhận của khách hàng hơn là sự khác biệt về sản phẩm hay cạnh tranh về giá (Hồ Thiên Thanh và Nguyễn Chí Đức, 2012).
Thứ hai, mối quan hệ giữa các NHTM không chỉ là mối quan hệ cạnh tranh mà còn là hợp tác và chia sẻ rủi ro với nhau. Hoạt động kinh doanh của các NHTM liên quan đến hầu hết các tổ chức kinh tế, chính trị - xã hội và đến từng cá nhân thông qua nghiệp vụ huy động vốn và tín dụng. Đồng thời, trong quá trình hoạt động, các NHTM cũng mở tài khoản cho nhau để phục vụ cho các khách hàng chung, bên cạnh đó, trong quá trình tác nghiệp các ngân hàng cũng phải hợp tác với nhau để thực thi các chức năng có tính hệ thống như thanh toán bù trừ, liên minh thanh toán thẻ, cho vay hợp vốn, đồng bảo lãnh. Ngoài ra, các NHTM còn chia sẻ thông tin khách hàng để giảm thiểu rủi ro khách hàng gian lận, ngăn chặn tác động