Tác động của các biến kinh tế vĩ mô đến chỉ số chứng khoán một số nước thị trường mới nổi - 2


• P0: hiện giá cổ phần.

DIV1 : cổ tức mong đợi năm sau.

• r: tỷ lệ chiết khấu.

• g: tốc độ tăng trưởng.


Lạm phát là một sự gia tăng trong các mức giá chung của hàng hóa và dịch vụ, được đo như là sự gia tăng tỷ lệ phần trăm hàng năm.

Nguyên nhân gây ra lạm phát:


Lạm phát do chi phí đẩy: Chi phí đẩy của các doanh nghiệp bao gồm tiền lương, giá cả nguyên liệu đầu vào, máy móc, chi phí bảo hiểm cho công nhân, thuế... Khi giá cả của một hoặc vài yếu tố này tăng lên thì tổng chi phí sản xuất của các xí nghiệp chắc chắn cũng tăng lên, vì thế mà giá thành sản phẩm cũng sẽ tăng lên nhằm bảo toàn lợi nhuận và thế là mức giá chung của toàn thể nền kinh tế cũng sẽ tăng.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 55 trang tài liệu này.

Lạm phát do cơ cấu: Với ngành kinh doanh có hiệu quả, doanh nghiệp tăng dần tiền công danh nghĩa cho người lao động. Giá lao động tăng lên gây áp lực lên những nhóm ngành kinh doanh không hiệu quả, các doanh nghiệp này buộc phải tăng giá thành sản phẩm để đảm bảo mức lợi nhuận và làm lạm phát sinh ra lạm phát.

Lạm phát do cầu kéo: nếu nhu cầu đang tăng nhanh hơn nguồn cung, giá cả sẽ tăng lên. Điều này thường xảy ra ở các nền kinh tế đang phát triển.

Tác động của các biến kinh tế vĩ mô đến chỉ số chứng khoán một số nước thị trường mới nổi - 2

Lạm phát do xuất khẩu: Khi xuất khẩu tăng, dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn tổng cung bởi vì sản phẩm được thu gom cho xuất khẩu khiến lượng hàng cung cho thị trường trong nước giảm khiến tổng cung trong nước thấp hơn tổng cầu. Khi tổng cung và tổng cầu mất cân bằng sẽ nảy sinh lạm phát.

Lạm phát do nhập khẩu: Khi giá hàng hóa nhập khẩu tăng (do thuế nhập khẩu tăng hoặc do giá cả trên thế giới tăng) thì giá bán sản phẩm đó trong nước sẽ phải tăng lên. Khi mức giá chung bị giá nhập khẩu đội lên sẽ hình thành lạm phát.



Lạm phát do tiền tệ: Khi cung lượng tiền lưu hành trong nước tăng, chẳng hạn do ngân hàng trung ương mua ngoại tệ vào để giữ cho đồng tiền trong nước khỏi mất giá so với ngoại tệ hay do ngân hàng trung ương mua công trái theo yêu cầu của nhà nước làm cho lượng tiền trong lưu thông tăng lên cũng là nguyên nhân gây ra lạm phát.

Lạm phát do cung đẩy: Khi công ty chi phí tăng lên, họ cần phải tăng giá để duy trì lạm phát chi phí đẩy của họ tăng chi phí có thể bao gồm những thứ như: tiền lương, thuế, hoặc tăng chi phí nhập khẩu.

Đo lường lạm phát là một vấn đề khó khăn cho các nhà thống kê của chính phủ. Để làm điều này, một số hàng hóa là đại diện của nền kinh tế được đặt lại với nhau thành những gì được gọi là một “giỏ thị trường”. Chi phí của giỏ này sau đó được so sánh theo thời gian. Điều này dẫn đến một chỉ số giá, đó là chi phí của giỏ thị trường ngày hôm nay như là một tỷ lệ phần trăm của chi phí đó giỏ giống hệt nhau trong năm bắt đầu. Lạm phát thường được đo lường bằng CPI, PPI.

Phương trình trao đổi tiền tệ (Fisher):


M.V = P.Y (2)


• M là tổng lượng cung tiền của quốc gia.

• V là số lần m i năm m i đồng tiền chi ra.

• P là mức giá chung của nền kinh tế.

• Y là thu nhập thực tế của nền kinh tế (GDP thực).


Nếu cung tiền tăng trưởng nhanh hơn so với tăng trưởng GDP thực lạm phát có khả năng ảy ra (khi V không đổi).

Phương trình (2) có thể viết dưới dạng (%):


% P +% Y =% M +% V (3)


Chuyển vế, ta được:



% P =% M + % V - % Y (4)


Lạm phát (% P) là tương đương với tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ (% M) cộng với sự thay đổi trong vận tốc (% V) trừ đi tỷ lệ tăng trưởng sản lượng (% Y).

Cung tiền mở rộng nó sẽ dẫn đến một sự gia tăng trong tiêu dùng hàng hóa cũng như làm gia tăng việc sử dụng các tài sản tài chính trong đó có chứng khoán. Chính sách mở rộng tiền tệ làm giảm lãi suất của nền kinh tế, làm giảm lãi suất chiết khấu của chứng khoán qua đó làm tăng giá kỳ vọng và tăng thu nhập.

Lãi suất cao hơn do ảnh hưởng của chính sách tiền tệ thắt chặt thường có tác động xấu cho TTCK bởi vì: nó làm giảm giá của chứng khoán thông qua việc làm tăng lãi suất chiết khấu trong các mô hình định giá; nó làm cho các chứng khoán thu nhập cố định trở thành một lựa chọn hấp dẫn hơn làm giảm thanh khoản vào cổ phiếu; làm giảm u hướng vay mượn để đầu tư vào chứng khoán; cuối cùng, nó làm tăng chi phí vận hành doanh nghiệp do đó ảnh hưởng đến lợi nhuận công ty.

Jorion (1990) cho thấy mối liên hệ giữa tỷ giá hối đoái và giá cổ phiếu có thể được quy định như sau:

Rit = β0i + β1iRst + εit (5)


Rit là tỷ suất sinh lợi vốn cổ phần công ty i; Rst là tỷ lệ thay đổi trong tỷ giá hối đoái t = 1,…,T. Tuy nhiên, hành vi của các giá cổ phiếu của các công ty trong nước có u hướng khác nhau giữa các công ty đa quốc gia. Vì vậy, việc ác định mối quan hệ giữa độ nhạy cảm tỷ giá hối đoái và mức độ sự tham gia của nước ngoài, như sau:

B1i = α0 + α1Fi + μi (6)


Fi là tỷ lệ nước ngoài trên tổng doanh số. Ngoài ra, độ nhạy cảm của tỷ giá có thể được xem xét trong một khuôn khổ mở rộng như sau:

Rit = β0i + β1iRst + β2i Rmt + εit (7)


Rmt là lợi nhuận trên chỉ số chứng khoán tích lũy ngoại hối trong tháng t; t = 1,…,T.


Ở cấp độ kinh tế vĩ mô, để dự đoán mối tương quan âm giữa sức mạnh của đồng nội tệ và chỉ số giá cổ phiếu tổng hợp ác định bởi phương trình:

Dst = α +βDRSt + cDit + εt (8)


Dst là thay đổi trong tỷ giá thực; DRSt là sự khác biệt lợi nhuận chứng khoán thực; Dit là thay đổi trong sự khác biệt lãi suất.

Lãi suất là giá cả của tín dụng, là tỷ lệ của tổng số tiền phải trả so với tổng số tiền vay trong một khoảng thời gian nhất định. Lãi suất là giá mà người vay phải trả để được sử dụng tiền không thuộc sở hữu của họ và là lợi tức người cho vay có được đối với việc trì hoãn chi tiêu.

Đường cong lãi suất là đồ thị mô tả mối quan hệ giữa lãi suất và kỳ hạn của một số công cụ nợ. Đồ thị này bắt đầu với mức lãi suất ở kỳ hạn thấp nhất và mở rộng ra theo thời gian, thường là đến kỳ hạn 30 năm. Đường cong lãi suất có thể được tạo cho bất cứ công cụ nợ nào, nhưng người ta thường chọn đường cong lãi suất Trái phiếu Chính phủ (TPCP) làm chuẩn do đặc tính rủi ro thấp (gần như không rủi ro) và sự đa dạng của các kỳ hạn trái phiếu. Đường cong lãi suất chuẩn đóng vai trò quan trọng trong việc tạo lãi suất tham chiếu cho hoạt động phát hành, giao dịch và đầu tư trên thị trường trái phiếu. Khi đường cong lãi suất tăng dốc, nó tạo một áp lực giảm giá chứng khoán bởi vì lãi suất của trái phiếu chính phủ sẽ tăng. Tuy nhiên, điều này chỉ mang tính lý thuyết, trên thực tế không có nghĩa là khi đường cong lãi suất tăng cao sẽ không có các cơ hội đầu tư vào chứng khoán, trên thực tế, đây chỉ là một nhân tố mà các nhà đầu tư chứng khoán cần

em t khi phân tích u hướng TTCK.


Tỷ giá hối đoái (tỷ giá) là tỷ lệ trao đổi của hai đồng tiền giữa hai quốc gia, là giá của một đồng tiền nước này tính bằng một đồng tiền nước khác. Thông thường tỷ giá hối đoái được biểu diễn thông qua tỷ lệ bao nhiêu đơn vị đồng tiền nước này (nhiều hơn một đơn vị) bằng một đơn vị đồng tiền của nước kia.



Lý thuyết danh mục đầu tư của Markowitz cho rằng danh mục đầu tư cần phải được xem xét lại khi tỷ giá hối đoái tăng hay giảm: một sự sụt giá của đồng nội tệ sẽ dẫn đến việc một danh mục đầu tư của nước ngoài chuyển từ các tài sản nội địa sang các tài sản bên ngoài do sự giảm giá đồng tiền đã làm giảm thu nhập của các nhà đầu tư nuớc ngoài khi những dòng tiền này được chuyển đổi sang đồng tiền chính quốc, sự rút lui của các nhà đầu tư nước ngoài một sụt giảm trong giá chứng khoán. Tuy nhiên, đối với các nhà đầu tư trong nước, sự giảm giá của đồng nội tệ làm cho chứng khoán nước ngoài trở nên đắc tương đối - một hiệu ứng thay thế sang các tài sản nội địa tăng giá chứng khoán.

Cán cân thương mại là một mục trong tài khoản vãng lai của cán cân thánh toán quốc tế. Cán cân thương mại ghi lại những thay đổi trong xuất khẩu và nhập khẩu của một quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định (quý hoặc năm) cũng như mức chênh lệch giữa chúng (xuất khẩu trừ đi nhập khẩu). Khi mức chênh lệch là lớn hơn 0, thì cán cân thương mại có thặng dư. Ngược lại, khi mức chênh lệch nhỏ hơn 0, thì cán cân thương mại có thâm hụt. Khi mức chênh lệch đúng bằng 0, cán cân thương mại ở trạng thái cân bằng.

Dự trữ ngoại hối nhà nước (dự trữ ngoại hối hoặc dự trữ ngoại tệ) là lượng ngoại tệ mà ngân hàng trung ương hoặc cơ quan hữu trách tiền tệ của một quốc gia hay lãnh thổ nắm giữ. Đây là một loại tài sản của Nhà nước được cất giữ dưới dạng ngoại tệ (thường là các ngoại tệ mạnh như: Đôla ĩ, Yên Nhật, Euro,…) nhằm mục đích thanh toán quốc tế hoặc h trợ giá trị đồng tiền quốc gia.

2.2 Các nghiên cứu thực nghiệm


TTCK là một chủ thể chịu tác động của nhiều nhân tố kinh tế: vi mô và vĩ mô. Trong đó nhân tố vĩ mô tác động mạnh hơn. Vì vậy, mối quan hệ giữa các biến kinh tế vĩ mô với chỉ số chứng khoán, đại diện cho TTCK, đã được nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới quan tâm. Stephen A. Ross (19 6) đã phát triển Lý thuyết kinh doanh chênh lệch giá APT (Arbitrage Pricing Theory) để giải thích tỉ suất sinh lợi của chứng khoán trên thị trường. Lý thuyết APT cho rằng tỉ suất sinh lời kỳ vọng của chứng khoán được ác định bằng phương trình k nhân tố: Rj = αj + βj,1F2 +…+ βj,KFK + εj.



Có các chứng cứ khác nhau của các quan hệ nhân quả giữa lợi nhuận chứng khoán và các biến số vĩ mô đã được tìm thấy trong các lý thuyết sử dụng các thông số kỹ thuật định giá tài sản khác nhau. Trong lý thuyết, CAP đã được dùng phổ biến rộng rãi bị thách thức nghiêm trọng kể từ khi lợi nhuận có thể được dự đoán từ các yếu tố tài chính khác. Điều này đã dẫn đến sự phát triển và thử nghiệm các thông số kỹ thuật định giá tài sản thay thế khác nhau, chẳng hạn như lý thuyết chênh lệch giá (APT) và mô hình hiện giá (PVM). Trong bối cảnh động thái vĩ mô của lợi nhuận cổ phiếu, APT giả định rằng doanh thu được tạo ra bởi một số yếu tố kinh tế vĩ mô. Nó cho ph p nhiều yếu tố rủi ro để giải thích lợi nhuận tài sản. Thuận lợi của PVM là có thể sử dụng trong mối quan hệ dài hạn giữa thị trường chứng khoán và các biến vĩ mô. Chen, Roll và Ross (1986) đã lập luận rằng lợi nhuận cổ phiếu bị ảnh hưởng bởi bất kỳ yếu tố ảnh hưởng đến dòng tiền trong tương lai hoặc tỷ lệ chiết khấu.

Các nghiên cứu của Chen, Roll và Ross (1986), Bodie (1976), Fama (1981), Geske and Roll (1983), Pearce và Roley (1983), Pearce (1985) đã phản ánh sự tác dộng của các biến kinh tế vĩ mô đến lợi nhuận chứng khoán.

Đối với thị trường chứng khoán Nhật Bản, thực nghiệm điều tra của Jaffe và Westerfield (1985) và Kato, Ziemba và Schwartz (1990) cũng tìm thấy một số bằng chứng về khả năng dự đoán hành vi chỉ số tỷ suất sinh lợi chứng khoán.

Mookerjee và Yu (1997) nghiên cứu cơ cấu giá thị trường chứng khoán Singapore điều tra xem liệu có mối quan hệ nhân quả lâu dài giữa các biến số kinh tế vĩ mô và giá cả thị trường chứng khoán. Họ nhận ra rằng ba trong số bốn biến kinh tế vĩ mô cùng đồng liên kết với giá cả thị trường chứng khoán.

Habibullah (2000) ác định các mối quan hệ dẫn dắt và độ trễ giữa thị trường chứng khoán alaysia và năm biến kinh tế vĩ mô then chốt. Nghiên cứu của Naka (2001) về mối quan hệ giữa các biến kinh tế vĩ mô và chỉ số Bombay Stock Exchange. Kết quả cho thấy lạm phát trong nước có khả năng cản trở nghiêm trọng nhất đến thị trường chứng khoán Ấn Độ ngược lại tốc độ tăng trưởng sản lượng nội địa là động lực chủ yếu của nó.



Nasseh (2000) nghiên cứu mối quan hệ giữa giá thị trường chứng khoán (đại diện bởi chỉ số chứng khoán) và các hoạt động kinh tế nội địa và quốc tế ở sáu nước: Pháp, Đức, Ý, Hà Lan, Thụy Sĩ and Anh, mặc dù giá chứng khoán được giải thích bởi các biến kinh tế cơ bản trong ngắn và trung hạn nhưng sự biến động cơ bản vốn có trong giá cổ phiếu có liên quan với các biến động kinh tế vĩ mô trong dài hạn.

Bhattacharya (2002) điều tra bản chất của mối quan hệ nhân quả giữa giá cổ phiếu và tổng hợp kinh tế vĩ mô trong nước ngoài khu vực ở Ấn Độ bằng cách áp dụng các kỹ thuật: kiểm tra đơn vị gốc (unit root test), đồng liên kết (cointegrate) và kiểm tra quan hệ nhân quả Granger dài hạn gần đây đề xuất bởi Toda và Yamamoto (1995) tìm thấy rằng không có mối liên hệ nhân quả giữa giá cổ phiếu và các biến.

Okuyan (2008) điều tra mối quan hệ giữa các biến số kinh tế vĩ mô và giá cổ phiếu thực ở Thổ Nhĩ Kỳ theo “giả thuyết đại diện” được phát triển bởi Fama (1981). Mối quan hệ dài hạn giữa biến được kiểm tra bằng cách tiếp cận Bound phát triển bởi Paseran (2001).

Các nghiên cứu được thực hiện bởi Chen, Roll và Ross (1986), Chan, Chen và Hsieh (1985) đề nghị rằng sự thay đổi sản xuất tổng hợp, tỷ lệ lạm phát, lãi suất ngắn hạn, độ dốc trong cấu trúc thời hạn (đo lường bằng sự khác biệt trong lợi nhuận dài hạn và ngắn hạn của trái phiếu chính phủ) và phí rủi ro (đo lường bằng lợi nhuận trái phiếu cấp thấp và trái phiếu cấp cao) là những nhân tố có ảnh hưởng đến việc dư đoán lợi nhuận chứng khoán.

Harvey (1995) tập trung vào các thị trường mới nổi bằng cách nhìn vào lợi nhuận của hơn 800 cổ phiếu của 20 thị trường mới nổi. Ông thấy rằng mức độ dự đoán trong thị trường mới nổi lớn hơn ở các thị trường phát triển. Ngoài ra, thông tin nội địa đóng một vai trò quan trọng hơn nhiều trong việc dự đoán lợi nhuận ở các nước thị trường mới nổi hơn so với các nước thị trường phát triển. Đặc điểm này giúp giải thích sự khác biệt trong khả năng dự đoán giữa hai loại thị trường.

Lý thuyết đại diện được xây dựng bởi Fama và Schwert (1977) cho rằng sự gia tăng các hoạt động kinh tế thực sự gây ra một sự gia tăng lạm phát và cũng là một giảm trong giá



cổ phiếu do mối tương quan âm giữa lạm phát và giá cổ phiếu. Tuy nhiên, lý thuyết được phát triển bởi Fama (1981) lại cho rằng có mối tương quan dương giữa giá cổ phiếu và hoạt động kinh tế thực sự.

alkiel (19 9) đã nói rằng sự biến động của lạm phát làm tăng nguy cơ của việc sở hữu một cổ phiếu và do đó ông dẫn đến một mối tương quan âm giữa lạm phát và giá cổ phiếu. Cukierman (1983) ngụ ý rằng có một mối quan hệ dương giữa lạm phát dự kiến, biến động lạm phát, lạm phát bất ngờ và lạm phát thực.

Bên cạnh đó, nghiên cứu của Linter (19 5), Bodies (19 6) cũng có kết quả tương tự đó là sự tương quan âm giữa lợi nhuận thực của vốn chủ sở hữu và tỷ lệ lạm phát thực. Với một số giả định, Fama và Schwert (1977) phân tích lạm phát thành lạm phát kỳ vọng và không kỳ vọng kết quả cho thấy rằng cả hai phần đều tương quan âm đến lợi nhuận chứng khoán. Nghiên cứu khác tập trung vào mối tương quan âm giữa lạm phát và giá cổ phiếu thực, phản ánh trong tỷ lệ chi trả cổ tức và tỷ số giá/thu nhập. Modigliani và Cohn (1979), Summers (1983) cho rằng giá cổ phiếu có thể bị bóp méo bởi lượng tiền ảo tức là cổ phiếu được định giá như khi các nhà đầu tư nhầm lẫn sử dụng lãi suất danh nghĩa để giảm giá thu nhập thực tế.

Park (1997) tiếp cận với các sản phẩm trong một khía cạnh khác nhau trong nghiên cứu của mình liên quan đến Hoa Kỳ. Ông đã đề cập về một mối tương quan âm giữa chỉ số lạm phát và giá cổ phiếu trong tương lai. Theo Park (199 ), tỷ lệ có việc làm là biến quan trọng nhất có thể dự báo lạm phát trong tương lai. Ông nói thêm rằng biến này tương quan âm với giá cổ phiếu.

Ngoài ra, nghiên cứu của Chatrath (199 ) cũng cho thấy mối tương quan âm giữa lợi nhuận thị trường chứng khoán và lạm phát ở các nước phát triển ở châu Âu và Bắc ĩ. Nghiên cứu cũng có kết quả tương tự ở Ấn Độ.

John Y. Campbell và Tuomo Vuolteenaho (2004) tìm thấy rằng lạm phát cao là tương quan dương với kỳ vọng tỷ suất cổ tức thực dự kiến sẽ tăng trưởng dài hạn. Họ thấy rằng lạm phát là gần như không tương quan với phí bảo hiểm rủi ro chủ quan.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 01/05/2022