So sánh pháp luật quản lý thuế thu nhập cá nhân tại Việt Nam và một số quốc gia trên thế giới - 6

thông tin của mình theo mẫu quy định và nộp tờ khai cho cơ quan quản lý thuế để bắt đầu thực hiện nghĩa vụ về thuế với Nhà nước theo các quy định của pháp luật.

Luật quản lý thuế năm 2006 (từ Điều 21 đến Điều 29) đã quy định các nội dung gồm: Đối tượng phải đăng ký thuế, thời hạn đăng ký thuế, hồ sơ đăng ký thuế, địa điểm nộp hồ sơ đăng ký thuế, thời hạn cấp và các loại Giấy chứng nhận đăng ký thuế (cấp mới, cấp lại…). Ngoài ra, Luật quản lý thuế còn quy định về mã số thuế và việc sử dụng mã số thuế đối với người nộp thuế, cơ quan quản lý thuế và với cơ quan liên quan; quy định các trường hợp chấm dứt hiệu lực mã số thuế và thủ tục chấm dứt mã số thuế và thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký thuế…

Một thực tế hiện nay, các đối tượng làm công ăn lương (cán bộ công chức, viên chức), số tiền thuế thu nhập cá nhân của họ được cơ quan thuế khấu trừ tại nguồn và những đối tượng có đăng ký kinh doanh là những đối tượng thường tuân thủ đúng nghĩa vụ đăng ký thuế thu nhập cá nhân và dễ quản lý hơn. Còn đối với các đối tượng có thu nhập từ kinh doanh khác như: các chủ thể kinh doanh không đăng ký kinh doanh, các hộ kinh doanh cá thể, thậm chí ngay cả những đối tượng mà tưởng chừng như dễ quản lý lại có những nguồn thu nhập phát sinh từ việc kinh doanh bên ngoài bên cạnh công việc tạo ra thu nhập chính cho họ thì “việc quản lý và giám sát các đối tượng này chưa được cơ quan thuế quản lý chặt chẽ, nói một cách chính xác hơn là khó quản lý và cơ quan thuế chưa có cách để quản lý sát sao” [33].

Bên cạnh việc đăng ký thuế là một nghĩa vụ mà Nhà nước quy định thì người nộp thuế cũng nhận lại được khá nhiều lợi ích nếu như tuân thủ đúng nghĩa vụ của mình. Cụ thể, đối với người nộp thuế đã đăng ký thuế, được cơ quan thuế cấp mã số thuế thì sẽ được hưởng các khoản giảm trừ cho bản thân người nộp thuế và người phụ thuộc (nếu đối tượng này cũng đã có mã số thuế) theo quy định của pháp luật thuế. Trong trường hợp người nộp thuế nộp thừa tiền thuế sẽ được hoàn lại số thuế thừa và được giảm thuế nếu bị thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn bất ngờ hoặc bị bệnh hiểm nghèo. Những người có mã số thuế cá nhân, cơ quan thuế có thể hướng dẫn miễn phí về thuế. Còn đối với cơ quan quản lý, việc người nộp thuế thực hiện đầy đủ việc đăng ký thuế và được cấp mã số thuế sẽ giúp cho cơ quan quan lý nắm rõ

được các thông tin của đối tượng nộp thuế, quản lý được nguồn thu nhập của họ để từ đó cơ quan quản lý thuế sẽ tính toán được chính xác các khoản thu từ đối tượng nộp thuế để đưa vào NSNN.

Việc đăng ký thuế là nghĩa vụ của người nộp thuế, theo đó, người nộp thuế phải cung cấp các thông tin của mình cho cơ quan thuế, tương ứng với đó, cơ quan quản lý thuế có trách nhiệm trong việc tiếp nhận hồ sơ đăng ký thuế của người nộp thuế. Pháp luật quản lý thuế có quy định 2 trường hợp đăng ký thuế:

- Đăng ký thuế lần đầu: áp dụng đối với người nộp thuế chưa có mã số thuế.

- Đăng ký thuế bổ sung: áp dụng đối với người nộp thuế có sự thay đổi, bổ sung các thông tin trong hồ sơ thuế đã nộp cho cơ quan thuế.

Để phục vụ cho công tác quản lý thuế cũng như tạo thuận lợi và giảm nhẹ các thủ tục hành chính, cơ quan thuế đã xây dựng và phát triển hệ thống đăng ký thuế thu nhập cá nhân qua mạng Internet từ năm 2009 đến nay và hệ thống này đã cấp cho các đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân hơn 12 triệu mã số thuế. Cơ quan thuế cũng đang triển khai nhiều ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý thuế thu nhập cá nhân nhằm thống nhất việc tổ chức thực hiện quản lý thuế, ngăn chặn tình trạng "lách luật" của người nộp thuế thu nhập cá nhân. Đồng thời, xây dựng và cung cấp miễn phí cho người nộp thuế các phần mềm hỗ trợ kê khai quyết toán thuế để người nộp thuế có thể chủ động tra cứu các thông tin về chính sách, chế độ thuế thu nhập cá nhân, thông tin về người nộp thuế. “Tính đến tháng 7-2013, tại Cục Thuế Hà Nội đã có 2.514.275 mã số thuế cá nhân được cấp trên ứng dụng nhập tờ khai đăng ký thuế. Cụ thể, tổng cá nhân có thu nhập từ kinh doanh được cấp là 133.997 mã số...” [11].

Như đã nói ở trên, một nguyên nhân mà các đối tượng có thu nhập từ tiền công, tiền lương thực hiện nghĩa vụ đăng ký thuế rất đầy đủ bởi vì, cơ quan thuế dễ dàng quản lý họ thông qua cơ quan chi trả thu nhập. Ngoài ra, trường hợp nếu người nộp thuế không thực hiện nghĩa vụ đăng ký thuế thì việc thu thuế của họ cũng không khó khăn do cơ quan thuế sẽ trích số tiền thuế từ cơ quan chi trả thu nhập. Tuy nhiên, khi mà nền kinh tế của nước ta còn đang trong thời kì hội nhập và phát triển, số lượng

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 136 trang tài liệu này.

các cá nhân tự kinh doanh, hộ kinh doanh cá thể nhỏ lẻ có thu nhập từ kinh doanh cũng không kém gì những đối tượng có thu nhập từ tiền công, tiền lương.

Mục đích của thuế thu nhập cá nhân vốn là để điều tiết thu nhập trong nền kinh tế nhưng do ngại khó và chỉ nhắm vào các đối tượng có tóc, ngành thuế đang tạo ra nhiều sự ngược đời trong thực thi các sắc thuế. Chính vì vậy, với suy nghĩ và thái độ ngại khó chỉ quản lý đối tượng có thể quản lý được, đồng thời với cơ chế hành thu như hiện nay tự kê khai, tự nộp thuế dựa trên sự tự nguyện tuân thủ của đối tượng nộp thuế thì việc để lọt số lượng đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân từ kinh doanh không thực hiện nghĩa vụ đăng ký thuế rất dễ dàng xảy ra. Chính vì vậy, sự công bằng giữa các chủ thể nộp thuế đang không được đảm bảo và không được thực hiện đúng như mục đích của thuế thu nhập cá nhân.

So sánh pháp luật quản lý thuế thu nhập cá nhân tại Việt Nam và một số quốc gia trên thế giới - 6

Có thể nói rằng, sở dĩ tồn tại những điều này là do ngành thuế của ta ngại khó, lạc hậu và thiếu sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan liên quan. Tất nhiên, thu thuế từ những người làm công ăn lương thì đơn giản hơn nhiều so với các hình thức khác. Nhưng nghĩa vụ của ngành thuế không chỉ là thống kê, tổng hợp, đưa vào diện thu thuế nhiều loại thu nhập mà quan trọng hơn là phải quản lý đầy đủ các loại thu nhập để tạo công bằng về thuế cho người dân. Đó là chưa kể, kinh tế Việt Nam đã và đang hội nhập ngày càng sâu vào kinh tế thế giới, sẽ còn nhiều hình thức kinh doanh hiện đại khác thâm nhập vào Việt Nam. Nếu chúng ta cứ thu thuế theo kiểu chọn việc nhẹ nhàng thế này thì ngân sách thất thu ngày càng lớn và sự bất bình đẳng về nghĩa vụ thuế ngày càng sâu. Đã đến lúc, ngành thuế phải xem lại trách nhiệm quản lý thuế của mình để tạo sự công bằng cho tất cả những người nộp thuế.

2.1.2.2. Về khai thuế

Khai thuế là việc người nộp thuế tự xác định số thuế phải nộp phát sinh trong kỳ khai thuế theo quy định. Người nộp thuế sử dụng hồ sơ khai thuế theo quy định của Luật Quản lý thuế để kê khai số thuế phải nộp với cơ quan thuế và tự chịu trách nhiệm về tính chính xác của số liệu trong hồ sơ khai thuế.

Nền tảng của quản lý thuế hiện đại chính là hướng đến và phát huy cao nhất tính tự giác tuân thủ pháp luật của người nộp thuế. Quản lý thuế theo cơ chế hiện

đại, hiệu quả này được hầu hết các nước trên thế giới áp dụng, nó cho phép các cơ quan thuế phân bổ nguồn lực theo hướng chuyên môn hóa, chuyên sâu trong quản lý, cải tiến các quy trình quản lý rõ ràng làm tăng sự minh bạch trong quản lý thuế, đồng thời giảm bớt chi phí quản lý, thúc đẩy cải cách hành chính thuế.

Sau nghĩa vụ đăng ký thuế, người nộp thuế được cơ quan quản lý thuế cấp mã số thuế cá nhân, nghĩa vụ tiếp theo của người nộp thuế đó là thực hiện kê khai chính xác, trung thực, đầy đủ các thông tin vào tờ mẫu khai thuế và chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác, trung thực, đầy đủ của hồ sơ thuế. Tùy vào loại kê khai mà người nộp thuế thực hiện việc kê khai theo các kỳ khác nhau: Kê khai và nộp thuế theo tháng; Kê khai theo năm đối với loại thuế có kỳ tính thuế năm; Kê khai và nộp thuế theo từng lần phát sinh nghĩa vụ thuế.

So với cơ chế thông báo thuế trước đây thì cơ chế tự khai, tự nộp thuế đem lại rất nhiều lợi ích cho các chủ thể của pháp luật thuế. Trước hết, cơ chế này mang lại lợi ích cho Nhà nước, cụ thể là cơ quan quản lý thuế.

- Tiết kiệm thời gian và công sức cho cơ quan thuế: Khi áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp thì hàng tháng cán bộ quản lý thu thuế sẽ không phải mất thời gian để tính toán lại số thuế phải nộp của đối tượng nộp thuế, không phải mất thời gian đi gửi thông báo thuế cho đối tượng nộp thuế. Hơn nữa, trong cơ chế “thông báo thuế” trường hợp đối tượng nộp thuế đã thực hiện nghiêm túc luật thuế, kê khai và tính toán chính xác số thuế phải nộp thì rõ ràng việc phải tính toán lại của cơ quan thuế là thừa và lãng phí thời gian, công sức.

- Tiết kiệm chi phí quản lý hành chính về thuế: Thực hiện cơ chế tự khai, tự nộp, cơ cấu tổ chức của cơ quan thuế được tổ chức theo chức năng nên bộ máy quản lý sẽ gọn nhẹ hơn bớt cồng kềnh, do đó giảm được một phần lớn chi phí quản lý mà hiệu quả quản lý vẫn cao.

- Tạo tiền đề nâng cao hiệu quả công tác của cơ quan thuế: Thực hiện áp dụng cơ chế tự kê khai, tự nộp thuế cơ quan thuế có điều kiện để cải tiến cơ cấu tổ chức nhằm sử dụng hiệu quả nhất các nguồn lực hiện có, công tác quản lý thu thuế được tổ chức theo hướng ngày càng hiện đại và chuyên môn hóa. Cán bộ thuế có điều kiện tập trung thời gian và công sức cho các công việc quản lý khác.

Ngoài ra, cơ chế này cũng mang lại lợi ích cho đối tượng nộp thuế:

- Nâng cao trách nhiệm pháp lý cho của người nộp thuế: Với cơ chế thông báo thuế, số thuế họ phải nộp được xác định theo thông báo của cơ quan thuế. Nhưng khi áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp thì đối tượng nộp thuế phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về tính trung thực của số liệu kê khai và cả tính chính xác của việc tính toán số thuế phải nộp. Tức là, đối tượng nộp thuế được nâng cao trách nhiệm pháp lý trong việc kê khai thuế với Nhà nước, tăng sự tự giác, được chủ động trong việc thực hiện nghĩa vụ của mình. Hơn nữa, còn thiết lập được niềm tin giữa cơ quan thuế và người nộp thuế.

- Tiết kiệm thời gian và công sức: Giống như lợi ích đem lại cho cơ quan thuế, cơ chế này sẽ làm giảm được các thủ tục hành chính trong việc thực hiện nghĩa vụ kê khai và nộp thuế của người nộp thuế, do đó cũng sẽ tiết kiệm được nhiều thời gian và công sức cho họ.

Với cơ chế tự khai nộp, tính tự giác chấp hành nghĩa vụ của người dân là quan trọng nhất. Hiện nay, có rất nhiều chủ thể nhất là những cá nhân kinh doanh, hộ kinh doanh nhỏ lẻ không kê khai thuế hoặc nếu có kê khai thì cũng tìm đủ mọi cách, để né thuế, loại bỏ rất nhiều các khoản thu nhập trên thực tế. Mặc dù luật pháp rất nghiêm khắc đối với việc trốn thuế, nhưng thực tế cho thấy, hành vi này diễn ra khá phổ biến, phức tạp và khó kiểm soát do nhiều nguyên nhân khác nhau, cả chủ quan lẫn khách quan. “Nếu đen họ bị cơ quan thuế phát hiện thì sẽ phải chịu các chế tài theo pháp luật thuế quy định, ngược lại, số người không kê khai thuế nhưng vẫn chưa bị phát hiện thì sẽ làm mất đi nguồn thu NSNN không hề nhỏ” [33].

Ngoài ra, một vấn đề nữa liên quan đến thủ tục hành chính về kê khai thuế cũng ảnh hưởng đến quyền lợi của người nộp thuế, đó chính là thời hạn nộp hồ sơ kê khai thuế. Theo quy định của pháp luật, thời hạn nộp hồ sơ kê khai thuế là khá ngắn, nhanh nhất là trong 10 ngày phải nộp hồ sơ và lâu nhất là khoảng 3 tháng để nộp hồ sơ và tùy từng loại kê khai lại có thời hạn khác nhau. Với số lượng người nộp thuế thu nhập cá nhân rất lớn, cộng thêm hồ sơ cồng kềnh, cơ quan thuế không chỉ giải quyết thuế thu nhập cá nhân mà còn giải quyết rất nhiều hồ sơ cho các loại

thuế khác, thì liệu rằng việc xem xét một cách kỹ càng các hồ sơ phát hiện sai sót (nếu có) để trả cho người nộp thuế bổ sung thủ tục có được thực hiện một cách chính xác hay không?

Thêm đó, tâm lý người nộp thuế lại có xu hướng nộp hồ sơ khai thuế vào những ngày gần cuối, khiến cho cơ quan thuế bị quá tải và khả năng cao là việc rà soát hồ sơ cho người nộp thuế còn kém chất lượng hơn nữa. Người nộp thuế cần phải nộp hồ sơ sớm nhằm đảm bảo tối đa quyền lợi của mình. Nhưng không phải vì quá tải mà cơ quan thuế lại có thể lấy lý do không điều chỉnh kịp thời để đổ dồn trách nhiệm vào người nộp thuế. Nhất là khả năng tiếp cận đến các văn bản pháp luật thuế và các kiến thức về thuế của người dân còn đang hạn chế, việc có sai sót trong thủ tục kê khai là không tránh khỏi, họ có thể vô tình bị xử phạt nặng mà không hay chỉ vì cơ quan thuế không kịp điều chỉnh hoặc vì hiểu biết về thuế chưa sâu. Thời hạn ngắn cộng thêm sự quá tải về hồ sơ trong những ngày cuối, nhưng giải pháp của cơ quan thuế theo quy định mới nhất đó là sẽ không có 4 ngày gia hạn đối với những người nộp chậm để họ hoàn thành hồ sơ khai thuế mà không bị phạt. Ngoài ra, bắt đầu từ ngày 1/1/2014 thì số tiền phạt cũng tăng lên. Cụ thể phạt số tiền tuyệt đối tối đa không quá 200 triệu đồng đối với người nộp thuế là tổ chức có hành vi vi phạm về thủ tục thuế. Mức phạt tiền tối đa không quá 100 triệu đồng đối với người nộp thuế là cá nhân có hành vi vi phạm về thủ tục thuế theo quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính. Chung quy, với thời hạn kê khai thuế như hiện nay, cần phải được sửa đổi phù hợp hơn với thực tế.

Với cơ chế kê khai hiện nay, việc quản lý thuế của cơ quan quản lý thuế đã được chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm. Nghĩa là, các thông tin mà người nộp thuế kê khai trong hồ sơ kê khai thuế, cơ quan thuế sẽ kiểm tra tính hợp lệ của hồ sơ mà không kiểm tra tính chính xác, trung thực của thông tin. Trách nhiệm này được luật quy định thuộc về người nộp thuế. Cơ quan quản lý thuế sẽ chỉ tiến hành kiểm tra, thanh tra các thông tin, các đối tượng nộp thuế sau khi người nộp thuế hoàn tất thủ tục. Quy định này thực tế cũng tạo ra những kẻ hở nhất định cần phải hoàn thiện.

Sau khi đã thực hiện đầy đủ các thủ tục đăng ký thuế, khai thuế và hoàn tất hồ

sơ thuế như đã phân tích ở trên. Để hoàn thành nghĩa vụ thuế, người nộp thuế phải thực hiện nộp thuế đầy đủ, đúng thời hạn, đúng địa điểm theo quy định của pháp luật.

Theo tổng hợp kinh nghiệm quốc tế cho thấy có hai cách tiếp cận đối với việc kê khai thuế thu nhập cá nhân đó là kê khai toàn bộ và kê khai hạn chế.

- Kê khai toàn bộ

Tất cả cá nhân có thu nhập gộp vượt quá một mức tối thiểu nhất định (gọi là ngưỡng kê khai) có nghĩa vụ phải nộp tờ khai thuế, nguyên tắc này cũng áp dụng cho cả các cá nhân có thu nhập từ nguồn duy nhất là tiền lương do một chủ lao động trả. Các nước yêu cầu kê khai toàn bộ bao gồm Úc, Canađa, Singapore và Mỹ.

Việc thu nộp thuế áp dụng đối với phương thức kê khai toàn bộ là khấu trừ thuế tại nguồn, theo đó một số loại thu nhập được người/tổ chức chi trả thu nhập khấu trừ thuế trước khi chi trả cho người nộp thuế, bên cạnh đó người nộp thuế có thể yêu cầu thanh toán thuế định kỳ cho các loại thu nhập khác không được khấu trừ. Vào cuối năm, người nộp thuế nộp tờ khai thuế tổng hợp bao gồm kê khai toàn bộ các hình thức thu nhập cá nhân khác nhau thu được trong năm (tiền công, thu nhập đầu tư, thu nhập kinh doanh...) và trừ đi các khoản được giảm trừ (như giảm trừ cá nhân, các khoản chi phí được trừ...). Thu nhập ròng từ tất cả các nguồn thu sau đó bị đánh thuế theo biểu thuế suất đơn giản (thường với thuế suất luỹ tiến), sau khi được bù trừ với khoản thuế nộp thừa hay nộp thiếu đã khai trong tờ khai thuế sẽ tính toán ra nghĩa vụ thuế còn lại trong năm.

Với hình thức này, các tổ chức chi trả có trách nhiệm báo cáo định kỳ cho cơ quan thuế các thông tin về giao dịch của mình với người nộp thuế. Vào cuối năm, cơ quan thuế sẽ kiểm tra các thông tin bên thứ ba với thông tin do người nộp thuế báo cáo trên tờ khai thuế. Hệ thống kiểm tra này gắn chặt với mã số thuế đã cấp cho người nộp thuế và các tổ chức khác.

Để hạn chế gánh nặng của phương thức kê khai toàn bộ đối với người nộp thuế và đại lý thuế, nhiều nước đã sử dụng rộng rãi hệ thống kê khai thuế điện tử đối với với tờ khai thuế và báo cáo về khấu trừ tại nguồn.

Tại một số nước, theo quy định của luật, một số tổ chức (ví dụ như các chủ lao động lớn, các tổ chức tài chính) phải nộp các báo cáo khấu trừ (và chuyển số tiền khấu trừ của mình) dưới dạng điện tử. Nhằm giảm bớt chi phí tuân thủ, một số đại lý thuế (như Chi lê, Đan Mạch, và Thụy điển) đã kết hợp các thông tin nhận được từ bên thứ ba (đại lý khấu trừ và các tổ chức báo cáo thông tin) với các thông tin khác do cơ quan thuế nắm giữ để lập tờ khai nhằm hỗ trợ cho người nộp thuế trước khi điền vào tờ khai (các thông tin được hỗ trợ điền vào tờ khai của người nộp thuế là các thông tin đã biết về thu nhập, các khoản chi phí được trừ, các khoản miễn thu...) và việc tính ban đầu số thuế cần phải nộp cho mỗi người nộp thuế [24].

- Kê khai hạn chế

Theo phương thức kê khai hạn chế, nhiều cá nhân không phải nộp tờ khai thuế, nhưng thay vào đó bị đánh thuế qua việc khấu trừ tại nguồn thông qua hệ thống khấu trừ tiền lương nhằm làm giảm yêu cầu kê khai đối với các cá nhân có những nguồn thu nhập khác. Các nước như Đức, Nhật Bản, Hà Lan, Newzealand, Anh đã tiếp cận theo cách này.

Đối với các cá nhân có thu nhập từ tiền lương, tiền công do một chủ lao động duy nhất chi trả (thường chiếm tỷ trọng lớn nhất trong số lượng người nộp thuế thu nhập cá nhân tại nhiều nước) thì chủ lao động sẽ khấu trừ trên cơ sở ước tính được sát nhất nghĩa vụ thuế hàng năm của người làm công phải thực hiện, do đó người lao động không phải nộp tờ khai thuế. Các khoản miễn thu cá nhân và giảm trừ cho người phụ thuộc được quy định trong luật thuế (đôi khi, áp dụng hình thức khoảng 0% đối với những mức thu nhập thấp), hoặc ở mức độ có thể, được tính trực tiếp vào hệ thống khấu trừ lương.

Trường hợp không thể khấu trừ tại nguồn, cơ quan thuế có thể ban hành quy định chỉ phải kê khai đối với những khoản thu nhập vượt quá ngưỡng tối thiểu để tránh việc yêu cầu tất cả người lao động đều phải nộp tờ khai.

Trường hợp phức tạp hơn khi các cá nhân có tiền lương, thu nhập từ hai công việc trở lên. Những đối tượng này có thể yêu cầu giảm trừ cá nhân và gia cảnh lần

Xem tất cả 136 trang.

Ngày đăng: 01/12/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí