So sánh nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Nam Cao Việt Nam và Ruinôxke Akutagawa Nhật Bản - 10


Nam Cao đã để cho nhân vật đối thoại triệt để, đối thoại đến tận cùng về mọi vấn đề để rồi tấn kịch tự ý thức của nhân vật được vỡ oà ra trong lời giải đáp ở đoạn độc thoại cuối cùng: “Điền không thể nào mơ mộng được. Cái sự thật tàn nhẫn luôn luôn bày ra đấy. Sự thực giết chết những ước mơ lãng mạn gieo trong đầu óc của Điền cái thứ văn chương của bọn nhàn rỗi quá. Điền muốn trốn tránh sự thực, nhưng trốn tránh làm sao được? Vợ Điền khổ, con Điền khổ, cha mẹ Điền khổ. Chính Điền cũng khổ. Bao nhiêu người nữa, cùng một cảnh, khổ như Điền! Cái khổ làm héo một phần lớn những tính tình tươi đẹp của người ta... Điền chẳng cần đi đâu cả. Điền chẳng cần trốn tránh, Điền cứ đứng trong lao khổ, mở hồn ra đón lấy tất cả những vang động của đời” [18,233].

Có cùng cảnh ngộ như Điền, Hộ trong Đời thừa cũng mơ ước có được thành công trong sự nghiệp văn chương nhưng mơ ước ấy lại bị đè bẹp bởi nỗi lo cơm áo. Nhưng nếu Điền chỉ rơi vào một tấn bi kịch là bi kịch của một văn sĩ thì ở Hộ còn thêm một bi kịch nữa là bi kịch tình thương. Hộ khao khát có được một tác phẩm đoạt giải Nobel nhưng vì kiếm tiền, Hộ lại viết ra những tác phẩm nhạt nhẽo, vô nghĩa lý. Và Hộ đau khổ. Đó là bi kịch thứ nhất. Hộ đã nhìn vào tấn kịch của mình và Hộ tự trách móc, đay nghiến mình là “khốn nạn”, “bất lương”, “đê tiện.”. Hộ thốt lên đau đớn: “Khốn nạn! khốn nạn thay cho hắn! Bởi vì hắn chính là một thằng khốn nạn! Hắn chính là một kẻ bất lương! Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương rồi. Nhưng sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện” [18,267]. ở đây, Nam Cao gọi nhân vật là “hắn” vì vậy người đọc rất dễ nhầm tưởng đó là giọng của tác giả chứ không phải giọng nhân vật. Nhưng thực ra đây chính là một lời đối thoại nội tâm đích thực của nhân vật Hộ. Trong đối thoại này, Hộ đã không ngần ngại phơi bày mọi sai lầm của mình với tư cách một nhà văn. Hộ


tự phân tích, đánh giá, mổ xẻ tâm sự, khát vọng và cả những thất vọng của mình khi viết ra những tác phẩm vô giá trị.

Ngoài mong muốn trở thành một nhà văn thành đạt, Hộ còn muốn “nâng đỡ kẻ khác trên đôi vai của mình”, Hộ muốn dùng tình thương để cứu vớt những người khốn khổ. Vì vậy, Hộ lấy Từ và có một gia đình. Hộ sẵn sàng hi sinh sự nghiệp văn chương để lo cơm áo cho cái gia đình mà Hộ tạo dựng từ tình thương. Nhưng rồi Hộ lại tiếp tục lâm vào bi kịch. Hộ không đủ tiền để nuôi bản thân, nuôi gia đình, Hộ trách mắng, dày vò vợ con. Và đến khi hiểu ra thì Hộ lại cảm thấy đau khổ hơn bao giờ hết, Hộ trách móc, dằn vặt bản thân. Hộ tự nhìn nhận và nói với mình trong bao nhiêu đau đớn, xót xa: “Còn gì đau đớn hơn cho một kẻ vẫn khao khát làm một cái gì nâng cao giá trị đời sống của mình, mà kết cục chẳng làm được cái gì, chỉ những lo cơm áo mà đủ mệt? Hắn để mặc vợ con khổ sở ư” Hắn bỏ liều, hắn ruồng rẫy chúng, hắn hi sinh như người ta vẫn nói ư? Đã một vài lần hắn thấy ý nghĩ trên đây thoáng qua đầu. Và hắn nghĩ đến câu nói hùng hồn của một nhà triết học kia: “Phải biết ác, biết tàn nhẫn để sống cho mạnh mẽ...Nhưng hắn lại nghĩ thêm rằng: “Từ rất đáng yêu, rất đáng thương, hắn có thể hi sinh tình yêu, thứ tình yêu rất vị kỷ đi, nhưng hắn không thể bỏ lòng thương, có lẽ hắn nhu nhược, hèn nhát, tầm thường, nhưng hắn vẫn còn được là người: hắn là người chứ không phải một thứ quái vật bị sai khiến bởi lòng tự ái” [18,268].

Đoạn độc thoại xen lẫn đối thoại nội tâm này đã bộc lộ tất cả những suy nghĩ, trăn trở sâu kín nhất của một người trí thức trong Hộ. Ngôn ngữ của Hộ trong đối thoại là ngôn ngữ “hai giọng” (M.Bakhtin) đang tranh chấp, đang đối thoại với nhau. ở giọng thứ nhất, Hộ tủi thân cho phận mình “chẳng làm được cái gì, chỉ những lo cơm áo mà đủ mệt”. Hộ tự cật vấn lương tâm mình, tự hỏi mình rằng: “hắn” có thể “bỏ liều”, “ruồng rẫy”, “để mặc vợ con hắn” được không, “hắn” có thể “ác”, “tàn nhẫn” một lần “để sống cho mạnh mẽ”.


Nhưng ở giọng thứ hai chính Hộ lại phản bác lại mình ở giọng thứ nhất vì trong sâu thẳm ý thức, Hộ hiểu rằng: “hắn không tầm thường” và “hắn vẫn còn được là người”. Hai suy nghĩ, hai giọng điệu trong một con người Hộ đã làm cho đối thoại nội tâm trở nên kịch tính, hấp dẫn người đọc. Nó cho thấy ngòi bút sắc sảo của Nam Cao đã chạm tới cả những phần sâu thẳm, bí ẩn nhất của con người.

Cũng như Điền trong Giăng sáng, Hộ trong Đời thừa, Điền trong Nước mắt cũng là một trí thức. Và Điền cũng vì vợ, vì con, vì nỗi lo cơm áo mà trở nên “độc ác”, “tàn nhẫn”. Đã có lúc Điền tự nhủ với mình, hắn sẽ đi phắt một nơi nào, sống cho một mình, “đứa nào chết mặc thây”. Nhưng rồi sau cơn nóng giận, Điền lại trở về với chính mình – một con người yêu vợ, thương con. Từ tận đáy lòng, Điền nói ra những lời yêu thương trừu mến: “Bây giờ trong lòng hắn chỉ còn lại sự xót thương. Hắn thương vợ, thương con, thương tất cả những người phải đau khổ” [18,332].

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 143 trang tài liệu này.

Có thể thấy điểm chung cho các nhân vật trí thức của Nam Cao là nhân vật được đặt trong quá trình tha hoá và tự ý thức để vượt lên sự tha hoá. Cho nên việc sử dụng các độc thoại và đối thoại nội tâm đã mang lại hiệu quả rất lớn cho các sáng tác của Nam Cao. Người đọc dường như được sống trong những suy nghĩ miên man vô tận của nhân vật. Nhiều khi người đọc còn bị tác giả “đánh lừa” vì đã nhầm tưởng đó là suy nghĩ của tác giả. Vậy nhưng, khi các độc thoại và đối thoại nội tâm kết thúc với câu trả lời cho các tấn kịch tự ý thức thì người đọc mới vỡ ra đó không phải là suy nghĩ của tác giả mà là lời, suy nghĩ của nhân vật. Lời và suy nghĩ của tác giả nếu có thì nó cũng đã hoà vào lời của nhân vật. Nghệ thuật tự sự của Nam Cao thành công chính là ở điểm đó.

Các nhân vật của Nam Cao chìm đắm trong những nỗi lo tầm thường, vặt vãnh của cuộc sống hàng ngày rồi rơi vào quá trình tha hoá. Sự tha hoá

So sánh nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Nam Cao Việt Nam và Ruinôxke Akutagawa Nhật Bản - 10


diễn ra trong tâm hồn nhân vật buộc nhân vật phải đấu tranh với nó để tìm lại mình. Những lúc ấy, nhân vật phải đối diện với chính mình, tranh cãi với mình rồi lại biện hộ, phân bua cho mình để thoát khỏi hoàn cảnh. Cũng diễn ra theo trình tự ấy, tuy nhiên, nhân vật của Akutagawa lại có quá trình tha hoá và tự ý thức phức tạp hơn. Thật khó để khuôn các nhân vật của Akutagawa vào một cảnh huống nhất định. Nhưng cũng như Nam Cao, sự tự ý thức ở các nhân vật Akutagawa được khắc hoạ thông qua các độc thoại và đối thoại nội tâm rất điển hình. Truyện ngắnVụ án mạng thế kỉ ánh sáng là một tác phẩm nói về lời tự thú của một nhân vật bác sĩ với cái tên Kitabatakê. Nhân vật này đã gây ra một án mạng và để lại một bức thư là bản tự thú đích thực. Do đó, cả câu chuyện là một chuỗi dài những dòng độc thoại và đối thoại nội tâm của nhân vật về hành động giết người. Nhìn chung, dòng tâm tưởng của nhân vật này được chia làm hai giai đoạn: Trước và sau khi gây tội ác. Đây là một đoạn độc thoại nội tâm lý giải động cơ giết người của Kitabatakê (trước khi gây tội ác):

“...Lẽ nào tôi có thể quên được cái gã trác táng ti tiện ấy đã hành lạc trên chiếc chiếu khi một tay hắn quơ lấy một ả gái giang hồ già, còn tay khác thì một cô gái măng tơ chỉ như nụ hoa vừa mới nở... Lạy chúa! Chính khi đó, vào tối đó, lúc chúng tôi ngắm nhìn cuộc bắn pháo từ tiệm ăn Manbati, tôi đã cảm thấy phải giết chết hắn ta. Tôi biết rằng không chỉ đơn giản là do lòng ghen tuông thúc đẩy tôi giết Mixumura – không, nỗi bất bình đã chi phối tư tưởng tôi, bàn tay tôi, bởi vì tôi muốn trừng phạt sự trụy lạc, phục hồi công lý... Tôi hiểu rằng sự tồn tại của hắn đang phá hoại đạo đức, đang đe doạ luân thường đạo lý, còn tiêu diệt hắn là để giúp đỡ cho người già và mang lại sự yên tĩnh cho người trẻ. Và lúc đó, ở trong tôi, quyết tâm giết Mixumara dần dần đã trở thành kế hoạch cụ thể” [1,92-93].


Trong đoạn độc thoại này, chúng ta liên tưởng đến nhân vật Raxkônnikôp trong Tội ác và trừng phạt của Đôtxtôiepxki. Nếu như Raxkônnikôp giết một mụ già cho vay nợ lãi không chỉ vì tiền cho bản thân và những người gần gũi mà còn vì muốn trừ khử “một con gián, một con rận bẩn thỉu hút máu, hút mủ” người khác để đòi bình quyền trong xã hội, thì ở đây, Kitabatakê cũng vậy. Bác sĩ giết người không chỉ đơn giản vì lòng ghen tuông mà còn muốn đòi lại “luân thường đạo lý”, đòi lại “công lý” cho xã hội. Trong một lời đối thoại nội tâm xen lẫn độc thoại, Kitabatakê đã phân bua tất cả những suy nghĩ, cảm xúc sâu kín nhất của mình. Đó vừa là sự ghen tuông, vừa là sự tức giận, căm ghét một kẻ cặn bã trong xã hội. Để rồi dòng cảm xúc được đẩy lên cao trào là quyết định giết người. Nhưng sau khi án mạng xảy ra và Kitabatakê hoàn toàn vô tội trước pháp luật thì những dòng suy nghĩ mới lại đến với nhân vật. Bản thân Kitabatabê cũng không biết mình nên buồn hay nên vui trước cái chết của Mixumura vì sau đó cô em họ của anh ta sẽ lấy Bá tước. Hãy xem một đoạn độc thoại nội tâm khác của Kitabatakê:

“Tôi vui mừng ư? Tôi buồn ư? Chính bản thân tôi cũng không thể diễn tả nổi. Có một thứ tình cảm nào đó gay gắt, mạnh mẽ không sao diễn tả được bao trùm cả con người tôi và không một khoảnh khắc nào cho phép tôi được yên lòng. Trên bàn có một chai sâm banh... Và cũng ngay ở đấy là cái hộp đựng chính những viên thuốc ấy. Dường như cả quỷ lẫn thần đã quyết định chia sẻ cùng tôi cái bữa ăn bất bình thường ấy cuả tôi” [1,96].

Rõ ràng một động cơ giết người mới đã xuất hiện trong Kitabatakê. Hình ảnh của những viên thuốc đã phân nhân vật ra làm hai đối cực “quỷ” và “thần”. Dòng nội tâm của Kitabatakê lúc này dường như đang diễn ra một cuộc tranh đấu quyết liệt để lựa chọn một trong hai. Và rồi tình cờ, thời gian sau đó, Kitabatakê đã có nhiều cơ hội khiến Bá tước sử dụng những viên thuốc nhưng lương tâm đã không cho phép Kitabatakê hành động. Kitabatakê


phải trải qua những cơn đau đớn, vật vã không sao tả xiết trong tâm hồn. Những cuộc chất vấn liên hồi của lương tâm đã khiến nhân vật bừng tỉnh và tự ý thức trong đau đớn: “Để không giết Bá tước, tôi phải giết chính bản thân tôi” [1,100]. Câu chuyện kết thúc khi những dòng độc thoại của nhân vật kết thúc. ở đây, cái làm cho câu chuyện “ngột thở” không phải là tình tiết của truyện mà là sự phát triển bất ngờ của tâm lý nhân vật. Đặc điểm này cho thấy sự độc đáo của bút pháp tự sự Akutagawa.

Cuộc đối thoại trong bóng tối là một truyện ngắn cuối cùng đã thể hiện lối tự sự đặc biệt của Akutagawa. Bởi cũng giống như chính tên truyện, toàn bộ truyện ngắn là một cuộc đối thoại dài của hai nhân vật “giọng nói” và “Tôi”. Truyện không có người dẫn truyện, vào truyện là câu hỏi của “giọng nói”, sau đó là lời đáp của “Tôi” và cứ như vậy luân phiên cho đến hết truyện. Thực ra đây chính là một cuộc đối thoại nội tâm toàn diện và triệt để của Akutagawa với chính mình trước khi ông tự vẫn. Akutagawa đã tự phân thân ra làm một “kẻ khác” để chất vấn, can ngăn thậm chí là khích bác, đùa bỡn, thách thức mình về tất cả mọi vấn đề đã và đang diễn ra trong cuộc sống và trong suy nghĩ của nhà văn. Chẳng hạn, trong một đoạn đối thoại, Akutagawa đã nhắc đến cái chết, cuộc đời, tình yêu và lòng vị kỉ... như thế này:

“Giọng nói: - Cái tính kiêu ngạo đang giết chết anh

Tôi: - Đôi khi tôi nghĩ như thế này đây: có lẽ tôi không thuộc số người sẽ chết trên giường của mình.

Giọng nói: - Giống như là anh không sợ cái chết ấy? Đúng không hả?

Tôi: - Tôi sợ chết. Song chết không khó. Tôi đã từng quàng thòng lọng vào cổ không phải một lần...

Giọng nói: - Thế vì sao anh không chết? Phải chăng trước mắt bất cứ ai thì anh cũng không phải là kẻ tội phạm nhìn theo quan điểm pháp luật?


Tôi: - Tôi tán thành điều đó. Cũng như Véclen, Vácnhe hoặc như Strinbéc.

Giọng nói: - Song anh đã không làm gì để chuộc tội cả

Tôi: - Tôi đang làm. Không có sự chuộc tội nào lớn hơn là sự đau khổ Giọng nói: - Anh là một tên vô lại bất trị

Tôi: - Đúng hơn tôi là một người đức hạnh... Giọng nói: - Thế thì có lẽ anh là một thằng ngốc Tôi: - Vâng. Có lẽ tôi là một thằng ngốc...

.............

Giọng nói: - Anh khinh bỉ tình yêu. Tuy nhiên bây giờ tôi thấy suốt từ đầu chí cuối anh đặt tình yêu cao hơn cả.

Tôi: - Không. Ngay bây giờ tôi cũng tuyệt nhiên không đặt tình yêu cao hơn cả. Tôi là một nhà thơ. Một nghệ sĩ.

Giọng nói: - Thế chẳng phải anh đã bỏ cha, bỏ mẹ, bỏ vợ, bỏ con vì tình yêu đó sao?

Tôi: - Anh nói láo. Tôi bỏ cha, bỏ mẹ, bỏ vợ, bỏ con chỉ vì bản thân tôi Giọng nói: - Thế tức anh là một kẻ vị kỉ.

Tôi: - Rất tiếc tôi không phải là kẻ vị kỉ. Tôi muốn được trở thành kẻ vị kỉ” [1,330-331].

Trong những truyện ngắn khác (Những nỗi thống khổ của địa ngục, Kêxa và Môritô...), Akutagawa cũng vẫn xây dựng các nhân vật của mình trên tinh thần để cho nhân vật tự ý thức đến tận cùng về mọi vấn đề của nó thông qua các đối thoại và độc thoại bên trong. Bởi vậy, truyện ngắn của Akutagawa thường “nghèo” về tình tiết nhưng “giàu” về tâm lý. ở những tác phẩm đó, nhà văn còn đặt vào những dòng tâm lý đối nghịch của một hoặc nhiều nhân vật để làm sáng tỏ những ẩn ức rắc rối, quanh co, khó lý giải của tâm hồn con người.


* Tiểu kết:

Nhân vật tự ý thức là một sáng tạo điển hình của văn học phương Tây thế kỉ XIX. Nam Cao và Akutagawa đã kế thừa và đưa loại nhân vật này vào trong sáng tác của mình, đồng thời biến nó trở thành một phương thức tự sự hữu hiệu. Tuy mỗi nhà văn có một cách xây dựng khác nhau nhưng nhìn chung, kiểu nhân vật tự ý thức của Nam Cao và Akutagawa được thể hiện trong hai loại nhân vật thường xuất hiện trong truyện ngắn của hai nhà văn là: nhân vật thuộc tầng lớp dưới đáy và nhân vật trí thức. Mỗi loại nhân vật này lại có một đời sống tâm lý riêng nên quá trình tự ý thức của nhân vật cũng có nhiều khác biệt. Qua nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy: Phương diện nghệ thuật tiêu biểu mà cả Nam Cao và Akutagawa cùng sử dụng để khắc hoạ nhân vật tự ý thức trong các tác phẩm là ngôn ngữ nhân vật gồm: ngôn ngữ bên ngoài (ngôn ngữ đối thoại trực tiếp) và ngôn ngữ bên trong (độc thoại và đối thoại nội tâm). Đặc biệt, với hình thức độc thoại và đối thoại nội tâm, Nam Cao và Akutagawa đã tạo ra một “hành trình” thuận lợi để khám phá thế giới bên trong đầy phức tạp và bí ẩn của con người (nhân vật). Các nhà văn không chỉ nhìn nhận con người như một “khách thể câm lặng” mà coi con người như một “tiểu vũ trụ” không biết hết, không biết trước được và cần phải được khai phá, tìm hiểu. Những con người ấy luôn được giao lưu với hoàn cảnh để bộc lộ nội tâm, sự tự ý thức một cách tự do. Khắc hoạ thành công nhân vật tự ý thức ngòi bút Nam Cao và Akutagawa đã vươn tới đỉnh cao trong nghệ thuật tự sự so với các nhà văn cùng thời.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 18/12/2023