tự trách và đay nghiến bản thân là “một thằng... khốn nạn”. Sự tự ý thức đã đưa Hộ trở lại với bản chất con người vốn có của mình.
Trong truyện ngắnNước mắt, Điền là một công chức và cũng như Hộ, Điền cần tiền để nuôi cái gia đình nghèo khổ của mình. Hàng ngày, Điền phải vật lộn với cái nghèo để tồn tại. Nhiều lúc Điền nghĩ rằng cuộc sống thật khổ và Điền khổ vì vợ, vì con, vì cái gia đình nghèo nheo nhóc. Vì thế, Điền nổi giận trách mắng vợ con vô cớ. Nhưng khi đã bình tĩnh trở lại Điền lại ý thức, lại hiểu ra “con người không phải là thánh” nên mọi người cần bỏ qua nhau những điều vặt vãnh, tầm thường để vươn tới những điều tốt đẹp trong cuộc sống. ở truyện ngắn khác – truyện ngắn Mua nhà, nhân vật “Tôi” khao khát có được căn nhà tử tế để bằng bạn bằng bè, nhưng nghèo quá. Song khi may mắn có được một căn nhà mới thì “Tôi” lại rơi vào tình thế bất ổn. Bởi căn nhà hiện có của anh ta là tài sản duy nhất của một gia đình nghèo khổ, bất hạnh khác. Anh ta cảm thấy hối hận và tự dằn vặt mình là kẻ độc ác, tồi tệ: “Tôi ác quá! Tôi ác quá!”. Và câu chuyện cứ tiếp diễn bằng một chuỗi dài những lời xám hối của nhân vật. Nhưng cuối cùng nhân vật cũng tìm được cho mình một con đường để giải thoát khi anh ta bằng lòng với ý thức: “Hạnh phúc chỉ là một cái chăn quá hẹp, người này có thì người kia bị hở”. Trong cuộc sống, con người không ai hoàn thiện, không có ai tốt hết và “giá người ta vẫn có thể nghĩ đến mình mà chẳng thiệt gì đến ai” [18,289].
Nhìn chung, các nhân vật trí thức của Nam Cao đã được nhà văn miêu tả một cách khách quan với đời sống nội tâm và quá trình tự ý thức phong phú, phức tạp. Nam Cao luôn giữ được một khoảng cách cần thiết với nhân vật của mình. Ông không áp đặt cho nhân vật một tính cách, một nội tâm mà ngược lại, ông để cho nhân vật tự bươn chải, tự vật lộn với cuộc sống và nội tâm của chính nó. Nhân vật phải căng mình ra để mà tự nhận thức và tìm cái tôi riêng. Nhân vật luôn đứng ở ranh giới giữa cái thiện và cái ác, hiền và dữ, ở thế
giằng co giữa một bên là cái trong mình với một bên là nghịch cảnh bên ngoài. Đã có lúc nhân vật bị cuộc sống hàng ngày và những cơn sóng ngầm nội tâm đè bẹp nhưng nó vẫn tiếp tục vươn tới và không bao giờ chịu khuất phục. Đây chính là điểm khác biệt rõ nhất giữa nhân vật trí thức của Nam Cao và Akutagawa. Bởi hầu hết các nhân vật trí thức của Akutagawa sau quá trình tự ý thức đau đớn, vật vã thì đều tìm cho mình một con đường giải thoát bằng cách tự vẫn và đầu hàng số phận.
Nếu nhân vật trí thức trong tác phẩm của Nam Cao là tầng lớp trí thức tiểu tư sản được hình thành trong xã hội thực dân nửa phong kiến thì trong tác phẩm của Akutagawa kiểu nhân vật này xuất hiện khá phong phú. Họ có thể là hoạ sĩ, bác sĩ và tất nhiên là cả thi sĩ và họ có điểm chung là đều được đặt trong những tình huống khác thường để làm bật sự tự ý thức. Truyện ngắn Những nỗi thống khổ của địa ngục là một minh chứng rất rõ ràng. Đây là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của Akutagawa. Truyện xoay quanh ba nhân vật: Hoạ sĩ, Cụ Lớn và con gái hoạ sĩ. Theo yêu cầu của Cụ Lớn (một người có chức có quyền và rất được kính trọng) hoạ sĩ Iôxikhiđê phải vẽ một bức bình phong diễn tả tất cả nỗi thống khổ của địa ngục với hình ảnh của những phạm nhân bị hành hình bằng những cách dã man nhất. Muốn vẽ được bức bình phong này, Iôxikhiđê phải có rất nhiều nguyên mẫu và ông ta đã tự tạo ra những nguyên mẫu ấy bằng cách hành hạ những học trò của mình. Tuy nhiên, để vẽ cảnh trung tâm của bức tranh – cảnh một người phụ nữ ngồi trong cỗ xe ngựa bị thiêu cháy rơi từ trên cao xuống, hoạ sĩ cần đến sự giúp đỡ của Cụ Lớn. Và trong một đêm tối không trăng, hoạ sĩ đã được chứng kiến cảnh tượng kinh hoàng đó nhưng thật không ngờ người phụ nữ bị thiêu cháy đau đớn, quằn quại trong cỗ xe ngựa lại chính là người con gái mà hoạ sĩ rất mực yêu thương. Kết thúc truyện, người hoạ sĩ hoàn thành bức vẽ và tự tử ngay sau đó, Cái đáng bàn của câu chuyện này là người hoạ sĩ đã chấp nhận
mọi đau khổ, thậm chí hi sinh tính mạng của cô con gái độc nhất để hoàn thành kiệt tác của cuộc đời. Trong cái đêm kinh hoàng, người hoạ sĩ không mảy may quan tâm đến cô con gái đang chết một cách đau đớn như thế nào. Trái tim và khối óc ông ta lúc đó chỉ biết đến một điều duy nhất là thán phục vô hạn “vẻ đẹp của ngọn lửa đỏ hồng và thân hình người đàn bà quằn quại trong lửa”. Với người hoạ sĩ này, nghệ thuật là cái đích quan trọng nhất và để đạt được nó, ông ta sẵn sàng làm mọi việc kể cả “hiến tâm hồn mình cho quỷ” (Akutagawa). Nếu xét ở tư cách một người nghệ sĩ có thể nói hoạ sĩ Iôxikhiđê là một nghệ sĩ “trách nhiệm” nhất nhưng nếu xét ở tư cách một con người mà cụ thể là một người cha thì Iôxikhiđê lại là một kẻ sát nhân, sát hại chính con gái mình. Niềm say mê nghệ thuật trong con người hoạ sĩ chiếm một vị trí quá lớn, nó làm át đi cái bản chất người vốn có của ông ta cho nên đứng trước cái chết thảm thương của cô con gái vô tội, ông ta không cảm thấy đau đớn mà chỉ thấy cảm hứng nghệ thuật được thăng hoa. Nhân vật hoạ sĩ là một loại nhân vật trí thức tha hoá rất độc đáo của Akutagawa. Con người có thể bị tha hoá bởi nhiều cách và tha hoá vì nghệ thuật cũng là một trong những cách đó. Chi tiết cuối cùng của tác phẩm, sau cái chết của cô con gái, người hoạ sĩ hoàn thành kiệt tác và tự vẫn. Đó là một biểu hiện cho thấy quá trình dằn vặt đau khổ và tự hối cải của người hoạ sĩ.
Trong truyện ngắn Vụ án mạng thế kỉ ánh sáng, nhân vật bác sĩ Kitabatakê là nhân vật chính đồng thời cũng là người gây ra “vụ án mạng”. Bác sĩ Kitabatakê là bạn thân của vợ chồng bá tước Honda. Nhưng ngay từ khi còn niên thiếu, Kitabatakê đã yêu say đắm bá tước phu nhân Honda – Akiko đồng thời cũng là cô em họ của mình, tuy nhiên đó lại là một mối tình câm. Sau khi du học ở Anh quốc trở về, Kitabatakê được tin Akiko đã lấy một viên giám đốc nhà băng – Mixumura vì tên này đã dùng đồng tiền để phá hôn ước giữa Akiko và bá tước Honda. Tức giận và căm phẫn trước sự đểu cáng
Có thể bạn quan tâm!
- Những Tác Động Của Hoàn Cảnh Xã Hội Đối Với Cuộc Đời, Sự Nghiệp Văn Học Của Nam Cao Và Akutagawa.
- Khái Niệm Nhân Vật Như Một Phương Thức Tự Sự
- Nhân Vật Tự Ý Thức Thuộc Tầng Lớp Dưới Đáy
- Nghệ Thuật Xây Dựng Nhân Vật Tự Ý Thức Qua Ngôn Ngữ Bên Trong (Độc Thoại Và Đối Thoại Nội Tâm)
- So sánh nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Nam Cao Việt Nam và Ruinôxke Akutagawa Nhật Bản - 10
- Điểm Nhìn Bên Ngoài Và Điểm Nhìn Bên Trong.
Xem toàn bộ 143 trang tài liệu này.
và đê tiện của Mixumura, bác sĩ đã lập kế hoạch ám sát. Bằng kinh nghiệm của một thầy thuốc danh tiếng, bác sĩ đã giết chết Mixumura bằng những viên thuốc mà ai cũng nghĩ rằng hắn chết vì đột tử. Nhưng sau đó không lâu, đau đớn, giằng xé trước tội ác của mình, Kitabatakê đã tự sát và để lại bức thư là câu chuyện được kể. Như vậy, sự tha hoá biểu hiện ở nhân vật này chính là sự tha hoá ở hành động giết người. Trước pháp luật, Kitabatakê hoàn toàn vô tội nhưng trước lương tâm nghề nghiệp, việc làm của Kitabatakê là không thể tha thứ. Với một bác sĩ, thuốc phải dùng để cứu người nhưng Kitabatakê lại dùng những viên thuốc ấy để giết người. Bởi vậy, cả câu chuyện là một chuỗi dài đau đớn, quằn quại của nhân vật trước tội ác mà mình gây ra. Nhưng đó chưa phải là tất cả nguyên nhân khiến Kitabatakê tự vẫn. Bởi sau cái chết của Mixumaru, bá tước Honda và Akiko đã kết hôn, cảm giác ghen tuông và lòng vị kỉ lớn dần trong tâm trí Kitabatakê và anh ta lo sợ đến một ngày nào đó anh ta sẽ giết hại ngay cả bá tước để đoạt lấy Akiko. Đứng trước nguy cơ tha hoá và sự ích kỉ tàn nhẫn trong tâm hồn, Kitabatakê quyết định giết hại chính mình để không còn phải đau khổ, dằn vặt trước những suy nghĩ tàn ác. Đây có thể coi là biểu hiện cao nhất của quá trình tự ý thức ở nhân vật này.
Đất nước của các thuỷ dân là một truyện ngắn được sáng tác trước khi Akutagawa tự vẫn không lâu. Truyện ngắn được đánh giá là tác phẩm có tính chất tổng kết quá trình tìm tòi tư tưởng sáng tác của Akutagawa. Tác phẩm được xây dựng dưới hình thức một câu chuyên tưởng tượng hoang đường với bút pháp châm biếm, hài hước. Đây là một câu chuyện do một bệnh nhân bị thần kinh mang số hiệu hai mươi ba trong một bệnh viện tâm thần kể lại. Anh ta kể rằng: vào mùa hè ba năm trước trong một lần đi đến suối nước nóng, anh ta đã bị lạc vào thế giới của loài Kappa – một sinh vật huyền thoại sống dưới nước. ở đó, anh ta đã được chứng kiến tất cả mọi biểu hiện trong cuộc sống của loài Kappa từ tổ chức xã hội, tôn giáo, triết học, văn chương, thể chế
chính trị, sản xuất, đạo đức, gia đình thậm chí cả tình yêu... giống hệt như con người nhưng là mặt trái của nó. Thực ra hình ảnh của loài Kappa chính là hình ảnh con người tha hoá với đầy những thói tật và thế giới của chúng là hình ảnh của xã hội tư sản Nhật Bản. Các nhân vật trong truyện từ giám đốc hãng thuỷ tinh Ghêrơ, bác sĩ Tsacc, triết gia Maggơ, quan toà Bepp, thi sĩ Tôcc, thậm chí cả cô vợ hoa khôi Kappa của Baggơ... Tất cả đều bộc lộ những biểu hiện của sự tha hoá rõ nét. Chẳng hạn nhân vật Ghêrơ (giám đốc hãng thuỷ tinh), bản chất của chủ nghĩa tư bản đã ăn sâu trong từng quan niệm. Với Ghêrơ cũng như những con Kappa tư bản khác, ở đất nước của loài Kappa, việc sản xuất hàng loạt máy móc sẽ sa thải hàng chục công nhân mỗi ngày và những công nhân bị thất nghiệp đó sẽ được xã hội giải quyết bằng cách... ăn thịt họ. Nói về vấn đề này, Akutagawa muốn dự báo những nguy cơ tha hoá khủng khiếp sẽ đến với xã hội Nhật Bản hiện đại.
Trong truyện ngắn này, nhân vật thi sĩ Tôcc là một nhân vật khá gần với các nhân vật văn sĩ của Nam Cao. Nếu như ở nhân vật của Nam Cao, sự “cẩu thả” trong văn chương được coi là “bất lương”, “đê tiện” thì ở nhân vật thi sĩ Tôcc sự “cẩu thả” ấy phải bị trả giá bằng cái chết. Một trong những lý do Tôcc cầm súng tự bắn vào đầu mình là vì anh ta cảm thấy với tư cách một nhà thơ thì anh ta đã hoàn toàn thất bại. Bức thư cuối cùng Tôcc để lại là bài thơ giống y chang “Miniôna” của Gơt. Đó là chuyện ăn cắp văn chương. Còn chuyện khác, Tôcc tự tử vì cảm thấy cuộc sống thực tại quá nhàm chán và vô nghĩa lý. Anh ta chết để biết niềm vinh quang sau khi chết như thế nào. Thế nhưng khi sang thế giới của những bóng ma, linh hồn của Tôcc đã trả lời mọi người trong lễ cầu hồn rằng: cuộc sống của các vị thần chẳng khác gì cuộc sống của anh ta trước kia, cũng nhàm chán, vô nghĩa và nhiều đau khổ... Vì vậy rất có thể đến một lúc nào đó khi ở thế giới bên kia, anh ta sẽ tiếp tục cầm súng và kết liễu đời mình bằng tự phục sinh. Xây dựng hình tượng nhân vật
Tôcc, nhiều người cho rằng Akutagawa đã có dự cảm về sự bất lực của bản thân ông cũng như nhiều trí thức Nhật trong xã hội tư bản. Bởi vậy, chỉ trong khoảng thời gian ngắn sau khi hoàn thành tác phẩm Đất nước của các thuỷ dân, Akutagawa đã uống thuốc ngủ tự vẫn khi mới ở tuổi 35. Cái chết của ông “là một lời cảnh tỉnh nghiêm khắc đối với đông đảo giới trí thức còn dao động trong việc chọn đường” (Bách khoa toàn thư văn học Nhật Bản, 1954).
Như vậyN, các nhân vật trí thức của Akutagawa thường bị đẩy đến một tình thế nan giải buộc nhân vật phải tự nhận thức và hành động. Cũng như Nam Cao, Akutagawa luôn giữ một khoảng cách với nhân vật. Mỗi ngã rẽ cho hành động nhân vật đều là kết quả của quá trình diễn biến tâm lý phức tạp. Nhân vật của Akutagawa luôn hành động hết mình nhưng càng hành động nhân vật càng lún sâu hơn vào quá trình tha hoá rồi tự kết liễu đời mình. Sơ đồ chung cho các nhân vật này là: Nhận thức – hành động – nhận thức – tự sát. Với cách tạo cho nhân vật một sự tự ý thức gần như tối đa, Akutagawa hầu như đứng ngoài các câu chuyện và để mặc cho các nhân vật tự quyết định lấy số phận của họ. Vì thế, mạch tự sự của các truyện ngắn cũng có nhiều thay đổi bất ngờ khi nhân vật thay đổi về ý thức và hành động. Đây là nét tương đồng trong xây dựng nhân vật của truyện ngắn Nam Cao và Akutagawa. Cụ thể của nét tương đồng ấy sẽ được chúng tôi triển khai ở phần tiếp sau đây.
3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật tự ý thức
Trong văn học Việt Nam cũng như Nhật Bản đầu thế kỉ XX, sự thức tỉnh của ý thức cá nhân đã tác động không nhỏ đến các sáng tác đương thời. Các nhà văn hiện đại đã lấy nội tâm (bao gồm cả sự tự ý thức) của con người làm đối tượng chính cho sự miêu tả. Sinh thời, Akutagawa được các học giả Nhật Bản đánh giá là người đầu tiên đưa thế giới nội tâm và tâm lý phức tạp của con người vào văn học Nhật Bản làm cho nó mang màu sắc mới mẻ. Akutagawa thường mượn các cốt truyện cổ nhưng ông lại đưa vào trong đó
con người hiện đại với tính cách và tâm lý hiện đại. ở sáng tác của Akutagawa cái quan trọng nhất là tâm lý của nhân vật ra sao và nó đã tự ý thức như thế nào để vươn tới những tình cảm chân chính. Akutagawa không bao giờ xây dựng nhân vật của mình theo một tính cách hằng định, ông luôn để cho nhân vật tự va chạm với thế giới xung quanh để bộc lộ tính cách. Trong văn học Nhật Bản đương thời, Akutagawa là nhà văn duy nhất làm được điều đó. Bởi vậy, người ta gọi hiện thực trong tác phẩm của Akutagawa là một “hiện thực kiểu mới” – hiện thực nằm trong chính ý thức và tâm hồn của con người khi nó được giao lưu với hoàn cảnh. Cũng như vậy, Nam Cao là nhà văn hiện thực đạt đến trình độ miêu tả tâm lý nhân vật một cách thuần thục. Thành công của ngòi bút Nam Cao là sự kết hợp của ba yếu tố: Thứ nhất là khả năng “thiên bẩm” của một nhà văn trưởng thành trong giai đoạn lịch sử có nhiều biến động của Việt Nam đầu thế kỉ XX; Thứ hai là những thủ pháp tâm lý được kế thừa từ văn xuôi lãng mạn (đặc biệt là Tự lực văn đoàn); Thứ ba là sự vận dụng những thành tựu của “chủ nghĩa tâm lý” trong văn học thế giới (ở phương diện này, Nam Cao có ảnh hưởng nhiều của Đôtxtôiepxki, L.Tôntôi, Sekhov mà đặc biệt là Sekhov). Cũng như Akutagawa, khi miêu tả tâm lý, Nam Cao thường chú ý đến sự tự ý thức của nhân vật bởi tự ý thức là một phương diện cơ bản của nội tâm, tâm lý con người. Do đó, nghiên cứu nhân vật tự ý thức, ta không thể bỏ qua hai kiểu miêu tả tâm lý đặc trưng trong sáng tác của Nam Cao và Akutagawa. Đó là: Kiểu miêu tả tâm lý thông qua thế giới bên ngoài như: thiên nhiên, không – thời gian, ngoại hình, ngôn ngữ, hành động nhân vật... Các nhà nghiên cứu gọi kiểu miêu tả tâm lý này là kiểu miêu tả “gián tiếp”, “chẩn bệnh”. Và thứ hai là kiểu miêu tả tâm lý “trực tiếp”, thâm nhập thẳng vào thế giới nội tâm nhân vật. Tuy nhiên, giới hạn của luận văn chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu kiểu nhân vật tự ý thức nên chúng tôi chỉ xem xét nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật ở phương diện ngôn ngữ nhân vật
mà cụ thể là ngôn ngữ bên ngoài (ngôn ngữ đối thoại trực tiếp) và ngôn ngữ bên trong (ngôn ngữ đối thoại gián tiếp qua độc thoại và đối thoại nội tâm – các phương thức cơ bản thể hiện nhân vật tự ý thức).
3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật tự ý thức qua ngôn ngữ bên ngoài (ngôn ngữ đối thoại trực tiếp)
Nam Cao là nhà văn chủ nghĩa hiện thực tâm lý, ngôn ngữ của ông tỏ ra sắc sảo và phong phú hơn cả khi diễn tả tâm lý các nhân vật. Những nhân vật của Nam Cao đều có một đời sống tâm lý và sự tự ý thức đặc trưng cho tầng lớp người mà họ đại diện. Ngôn ngữ của loại nhân vật thuộc tầng lớp dưới đáy luôn được thể hiện một cách rõ ràng và chân thực qua các đối thoại trực tiếp. Do đó, kể cả khi nhân vật tự ý thì sự tự ý thức của nó đã được bao chứa ngay trong những đối thoại.
Trong truyên ngắn của Nam Cao, các nhân vật thường xuyên đối thoại trực tiếp là Lão Hạc, Chí Phèo, Dì Hảo... Thông qua ngôn ngữ của các nhân vật này, Nam Cao đã làm bật lên tất cả các khía cạnh phức tạp trong tâm lý mà đặc biệt là sự tự ý thức của người nông dân bị bần cùng hoá. Ai cũng biết Chí Phèo là một kẻ lưu manh. Tâm lý của hắn là tâm lý của kẻ tù tội trở về, “cố cùng liều thân” đi rạch mặt ăn vạ để đòi vài đồng bạc uống rượu rồi dần trở thành tay sai của Bá Kiến. Nhưng điều đáng nói là bản thân Chí Phèo cũng ý thức được điều đó. Chí Phèo hiểu hơn ai hết Bá Kiến là kẻ đẩy hắn vào cảnh tù tội nên với Chí Phèo, việc hắn ăn vạ và đòi tiền Bá Kiến là lẽ bất tất phải bàn cãi. Bởi vậy, ngay trong cơn say, ngôn ngữ, giọng điệu của Chí Phèo vẫn là ngôn ngữ của một kẻ có ý thức đòi quyền lợi chính đáng cho mình. “Bẩm cụ, từ ngày cụ bắt đi tù, con lại sinh ra thích đi ở tù, bẩm có thế, con có nói gian thì trời tru đất diệt, bẩm quả là đi tù sướng quá. Đi ở tù còn có cơm để mà ăn, bây giờ về làng, về nước, một thước đất cắm dùi không có, chả làm gì nên ăn. Bẩm cụ, con lại đến kêu cụ, cụ lại cho con đi ở tù...” [18,27].