Quy Định Về Sở Hữu Chung Hợp Nhất Của Vợ Chồng Trong Pháp Luật Của Một Số Nước Trên Thế Giới

Luật HN&GĐ năm 1959

Luật HN&GĐ năm 1959 là công cụ pháp lý của Nhà nước ta được xây dựng và thực hiện với hai nhiệm vụ cơ bản: xóa bỏ những tàn tích của chế độ HN&GĐ phong kiến lạc hậu, xây dựng chế độ HN&GĐ mới XHCN.

Luật HN&GĐ năm 1959 không dự liệu chế độ tài sản ước định, mà chỉ quy định: Vợ chồng đều có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng ngang nhau đối với tài sản có trước và sau khi cưới” [42, Điều 15]. Theo quy định này, thể hiện chế độ tài sản của vợ chồng theo luật HN&GĐ năm 1959 dự liệu là chế độ cộng đồng toàn sản: Toàn bộ các tài sản của vợ chồng dù có trước và trong thời kỳ hôn nhân, không phân biệt nguồn gốc tài sản và công sức đóng góp, đều thuộc khối tài sản chung của hai vợ chồng. Vợ, chồng có quyền bình đẳng ngang nhau khi thực hiện quyền sở hữu đối với tài sản chung và luôn có kỷ phần bằng nhau trong khối tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất đó.

Luật HN&GĐ năm 1959 tại Điều 16 và Điều 29 đã dự liệu hai trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng là khi vợ, chồng chết trước và khi vợ chồng ly hôn. Về nguyên tắc, tài sản chung của vợ chồng được chia căn cứ vào công sức đóng góp của mỗi bên, vào tình hình tài sản và tình trạng cụ thể của gia đình. Ngoài ra, luật cũng quy định: “Khi ly hôn, cấm đòi trả của” [42, Điều 28], nhằm xóa bỏ một trong những tập tục lạc hậu của chế độ HN&GĐ phong kiến trước đây.

Quá trình thực hiện và áp dụng Luật HN&GĐ năm 1959 đã đạt được những thành tựu to lớn, góp phần xóa bỏ triệt để những tàn tích lạc hậu của chế độ HN&GĐ phong kiến, thực hiện chế độ HN&GĐ XHCN ở nước ta. Tuy nhiên, sự phát triển của các điều kiện kinh tế - xã hội, kéo theo sự thay đổi của đời sống trong lĩnh vực HN&GĐ khiến quá trình thực hiện Luật HN&GĐ năm 1959 (trong đó có các quy định về chế độ tài sản của vợ chồng) đã gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Điều này do một số quy định của Luật HN&GĐ năm 1959 chưa cụ thể, hoặc không còn phù hợp với tình hình mới. Vì vậy, Luật HN&GĐ năm 1986 đã được ban hành.

Luật HN&GĐ năm 1986

Luật HN&GĐ năm 1986 quy định về căn cứ xác lập tài sản chung của vợ

chồng hẹp hơn so với Luật HN&GĐ năm 1959 bao gồm: tài sản do vợ chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân và tài sản do vợ chồng được tặng cho chung, thừa kế chung [43, Điều 14]. Bên cạnh khối tài sản chung của vợ chồng, Luật HN&GĐ năm 1986 đã ghi nhận vợ, chồng có quyền có tài sản riêng [43, Điều 16]. Người vợ, chồng có tài sản riêng có quyền nhập hoặc không nhập vào khối tài sản chung của vợ chồng.

Luật HN&GĐ năm 1986 cũng đã quy định bảo đảm quyền bình đẳng của vợ chồng đối với tài sản chung; quy định rõ mục đích sử dụng tài sản chung của vợ chồng là nhằm bảo đảm những nhu cầu chung của gia đình; vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau đối với tài sản chung. Việc mua, bán, đổi, cho, vay, mượn và những giao dịch khác có quan hệ đến tài sản mà có giá trị lớn thì phải được sự thỏa thuận của hai vợ chồng [43, Điều 15].

Đối với các trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng, Luật HN&GĐ năm 1986 dự liệu ba trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 123 trang tài liệu này.

- Chia khi một bên vợ, chồng chết trước;

- Khi vợ, chồng ly hôn;

Sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng theo Pháp luật Việt Nam - 5

- Chia khi hôn nhân đang tồn tại;

Quy định chia tài sản chung khi hôn nhân đang tồn tại là quy định mới của Luật HN&GĐ năm 1986, xuất phát từ thực tiễn của đời sống xã hội và với mục đích bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ, chồng cũng như của những người có lợi ích liên quan (người thứ ba) đến tài sản chung của vợ chồng.

Về nguyên tắc chia tài sản của vợ chồng, Luật HN&GĐ năm 1986 đã dự liệu “Nguyên tắc chia đôi tài sản chung” của vợ chồng trong các trường hợp [43, Điều 17, 18, 42]:

+ Trường hợp một bên vợ, chồng chết trước, nếu cần chia tài sản chung của vợ chồng thì chia đôi, phần tài sản của người chết được chia theo quy định của pháp luật về thừa kế. Nguyên tắc “chia đôi” tài sản chung của vợ chồng trong trường hợp này là chia bình quân, mỗi bên vợ, chồng được một nửa (1/2) giá trị tài sản chung, mà không cần phải dựa vào công sức đóng góp tạo dựng tài sản chung của vợ, chồng [43, Điều 17].

+ Đối với trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, khi có lý do chính đáng; hoặc chia tài sản chung của vợ chồng khi vợ, chồng ly hôn, nguyên tắc chia đôi tài sản chung chỉ mang tính ước lệ (xuất phát từ kỷ phần tài sản của vợ, chồng trong khối tài sản chung bằng nhau, một đặc điểm của tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất); khi chia, Tòa án vẫn phải dựa vào công sức đóng góp trong việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản cung của vợ chồng. Vẫn có thể chia tài sản chung của vợ chồng theo tỷ lệ nhiều, ít khác nhau cho các bên vợ, chồng.

Như vậy, chế độ tài sản chung của vợ chồng theo Luật HN&GĐ năm 1986 của Nhà nước ta có nhiều điểm khác biệt so với Luật HN&GĐ năm 1959 trước đây: quy định với căn cứ xác lập khối tài sản chung hẹp hơn rất nhiều so với chế độ cộng đồng toàn sản của Luật HN&GĐ năm 1959; đã cụ thể hóa trong một chừng mực nhất định các loại tài sản thuộc khối tài sản chung của vợ chồng, mục đích sử dụng tài sản chung vào nhu cầu đời sống chung của gia đình,quyền bình đẳng của vợ, chồng trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản chung, các trường hợp và nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng, v.v... [13, tr.97].

Luật HN&GĐ năm 2000

Giống với Luật HN&GĐ năm 1986, Luật HN&GĐ năm 2000 của Nhà nước ta cũng không dự liệu về chế độ tài sản ước định giữa vợ chồng vì không phù hợp với tập quán truyền thống của gia đình Việt Nam. Chế độ cộng đồng tài sản pháp định mà Luật HN&GĐ năm 2000 quy định là chế độ cộng đồng tạo sản áp dụng cho các cặp vợ chồng. Luật HN&GĐ năm 2000 quy định về phạm vi quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với các loại tài sản đó, các trường hợp chia tài sản chung và hậu quả của việc chia tài sản chung của vợ chồng.

So với Luật HN&GĐ năm 1986, Luật HN&GĐ năm 2000 khi quy định về chế độ tài sản của vợ chồng đã có sự đổi mới cả về kỹ thuật lập pháp và nội dung cụ thể; Góp phần bổ khuyết một số điểm hạn ch khi dự liệu về chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật HN&GĐ năm 1986 [13, tr.103 -104].

1.3. Quy định về sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng trong pháp luật của một số nước trên thế giới

Qua nghiên cứu việc pháp luật hôn nhân và gia đình của một số nước trên thế giới, điểm chung của nhà làm luật khi xây dựng chế độ sở hữu tài sản chung của vợ chồng bao gồm: căn cứ xác định tài sản chung, quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với những tài sản đó dựa trên các điều kiện kinh tế - xã hội, chế độ sở hữu, truyền thống, phong tục, tập quán, tâm lý, nguyện vọng của người dân... Tuy nhiên quy định pháp luật của mỗi nước có sự khác nhau, nhưng nhìn chung tại những nước có những điều kiện tương đồng về kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội thì có quy định tương tự nhau về vấn đề này.

Ở các nước phương Tây, coi trọng quyền tự do của cá nhân, quyền tự do thỏa thuận và quyền tự do định đoạt của các chủ thể trong quan hệ hôn nhân và gia đình. [13, tr.106]. Chính vì vậy mà các nước phương Tây hầu như lựa chọn chế độ hôn ước, chỉ khi vợ, chồng không có thỏa thuận hôn ước mới áp dụng chế độ tài sản pháp định. Chế độ tài sản chung theo thỏa thuận (hôn ước) tức vợ chồng có thể thỏa thuận về chế độ tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Vợ chồng có thể thỏa thuận trên cơ sở lựa chọn theo một chế độ tài sản được quy định trong pháp luật hoặc họ có thể chọn một chế độ tài sản riêng biệt, hoàn toàn độc lập với chế độ tài sản theo quy định của pháp luật. Quan điểm này thể hiện ở pháp luật của nhiều nước như: Nhật Bản (Điều 765 BLDS Nhật Bản), Thái Lan (Điều 1465 BLDS và Thương mại Thái Lan), Cộng Hòa Pháp (Điều 1400 BLDS Cộng hòa Pháp),....

Do tính chất cộng đồng, ổn định và lâu dài của hôn nhân nên đòi hỏi các điều khoản trong hôn ước có sự ổn định cao. Hôn ước là căn cứ pháp lý để điều chỉnh quyền và nghĩa vụ của vợ chồng về tài sản trong suốt thời kỳ hôn nhân của họ. Do đó, về nguyên tắc kể từ ngày thiết lập quan hệ hôn nhân, việc thực hiện hôn ước thường là "bất di bất dịch", các điều khoản trong hôn ước không thể bị sửa đổi, Điều 1395 BLDS Cộng hòa Pháp năm 1804 quy định: Hôn ước không thể thay đổi sau khi đã kết hôn. Theo Điều 758, Điều 759 BLDS Nhật Bản thì tài sản thuộc sở hữu chung có thể được thay đổi hoặc phân chia trong trường hợp vợ chồng có thỏa

thuận hoặc trong trường hợp vợ, chồng quản lý tài sản của nhau, nhưng người đó thực hiện quản lý tài sản không tốt và người kia đã yêu cầu Tòa án HN&GĐ tước bỏ việc quản lý nói trên. Như vậy, theo pháp luật Nhật Bản thì những quy định trong hôn ước cũng có thể được thay đổi cho phù hợp với thực tế cũng như nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của vợ và chồng.

Luật HN&GĐ của một số nước (Pháp, Nhật Bản, Canađa, Australia, Thụy Điển, Mỹ,..) quy định chế độ tài sản theo quy định của pháp luật (hay còn gọi là chế độ tài sản pháp định). Trong đó pháp luật quy định cụ thể về căn cứ xác định tài sản chung của vợ chồng, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản đó, cũng như trong việc thực hiện các giao dịch giữa vợ chồng với người thứ ba. Việc thừa nhận chế độ tài sản pháp định trong pháp luật của các nước tư bản chủ nghĩa mang tính chất thay thế trong trường hợp vợ chồng không có thỏa thuận bằng hôn ước, hoặc với mục đích để vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản áp dụng cho họ (phổ biến trong pháp luật về HN&GĐ ở các nước như Pháp, Nhật Bản, Canađa, Australia, Thái Lan...), Ví dụ Điều 1400 BLDS Cộng hòa Pháp quy định: “Chế độ cộng đồng tài sản được thiết lập khi không có hôn ước hoặc khi vợ chồng tuyên bố kết hôn theo chế độ cộng đồng tài sản” [35, Điều 1400].

+ Với chế độ cộng đồng tạo sản thì tài sản chung là những tài sản mà vợ, chồng có được trong thời kỳ hôn nhân. Những tài sản khác đều thuộc sở hữu riêng của vợ chồng kể cả tài sản được tặng cho, thừa kế riêng trong thời kỳ hôn nhân. Quy định này được pháp luật HN&GĐ nhiều nước tư bản chủ nghĩa dự liệu: BLDS Cộng hòa Pháp (Điều 1401 đến Điều 1408), BLDS Nhật Bản (Điều 62), BLDS và thương mại Thái Lan (Điều 1471 và Điều 1474),…

Tuy nhiên, thực tế ở nhiều nước phương Tây tính ưu việt về sự dung hòa giữa lợi ích của gia đình và lợi ích cá nhân vợ, chồng của chế độ tài sản này chỉ tồn tại về mặt hình thức vì hầu như các cặp vợ chồng phương Tây đều lựa chọn hôn ước.

+ Với chế độ phân sản: các nước áp dụng chế độ này thì vợ chồng không có tài sản chung, mà tài sản thuộc sở hữu riêng của mỗi người. Pháp luật chỉ quy định nghĩa vụ của vợ chồng là phải đóng góp vào chi tiêu chung trong gia đình.

Xuất phát từ quan niệm gia đình được xây dựng trên cơ sở tình yêu thương, quý trọng và bình đẳng, tự nguyện giữa các bên nên chế độ tài sản ước định đã không được thừa nhận trong pháp luật HN&GĐ các nước XHCN, chỉ có một hình thức chế độ tài sản duy nhất được thừa nhận là chế độ tài sản pháp định. Đây là quan niệm mang tính nguyên tắc được ghi nhận trong Luật HN&GĐ của Liên Xô (cũ), Cộng hòa nhân dân Ba Lan (cũ), Cộng hòa dân chủ Đức (cũ), Cộng hòa XHCN Tiệp Khắc (cũ), Cộng hòa XHCN Bungari (cũ), Cộng hòa Cu Ba, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa... Điều 29 LGĐ Cộng hòa Cu Ba quy định: Chế độ tài sản của vợ chồng là chế độ tài sản chung theo quy định của Bộ luật này. Chế độ tài sản này áp dụng kể từ ngày việc kết hôn được chính quyền công nhận hoặc từ ngày có cuộc sống chung...; chế độ tài sản này chấm dứt khi quan hệ hôn nhân chấm dứt không kể vì lý do gì.

Trên cơ sở kết hợp hài hòa giữa lợi ích cá nhân của vợ, chồng với lợi ích chung của gia đình, cộng đồng và xã hội, pháp luật HN&GĐ các nước XHCN đều ghi nhận ngoài sự tồn tại của chế độ tài sản chung, vợ chồng cũng có quyền có tài sản riêng (Khoản 1 Điều 27 Luật HN&GĐ và giám hộ của Cộng hòa nhân dân Hunggari, Điều 13 Luật hôn nhân năm 1980 của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa,…).

Thực tế cho thấy, việc chỉ thừa nhận chế độ tài sản pháp định đã khẳng định tính ưu việt của pháp luật HN&GĐ XHCN trong việc gắn lợi ích cá nhân của vợ, chồng với các lợi ích chung, đặc biệt lợi ích của gia đình. Xuất phát từ gia đình luôn được đảm bảo một cơ sở vật chất thống nhất và vững chắc, tính bền vững của các quan hệ HN&GĐ XHCN luôn được khẳng định.

Tuy nhiên, chế độ tài sản pháp định này trong quá trình thực hiện đã có sự hạn chế, đó là cứng nhắc không cho phép vợ, chồng có quyền thỏa thuận thay đổi phương thức xác định tài sản chung, tài sản riêng cũng như các quyền và nghĩa vụ có liên quan trong các trường hợp cụ thể. Đặc biệt, khi vợ, chồng tham gia các giao dịch nhằm mang lại lợi ích kinh tế cho gia đình nhiều khi cần sự linh hoạt, vì vậy nếu như chỉ áp dụng chế độ tài sản pháp định thì đôi khi làm lỡ mất cơ hội tham gia các giao dịch đó. Chính vì vậy, mà pháp luật HN&GĐ của một số nước XHCN (Cộng hòa XHCN Việt Nam, Cộng hòa Dân chủ Đức (cũ)...) bên cạnh việc quy định chế độ tài

sản pháp định mà vợ chồng phải tuân theo, đã ghi nhận vợ chồng có quyền thỏa thuận thay đổi một số nội dung trong chế độ tài sản được pháp luật quy định với điều kiện thỏa thuận đó phải có lý do chính đáng và không làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích của gia đình. Ví dụ, Điều 14 LGĐ của Cộng hòa dân chủ Đức quy định: “Vợ chồng được giao ước với nhau khác với quy định của Điều 13 (điều luật quy định chế độ sở hữu và tài sản của vợ chồng). Giao ước phải viết thành văn bản. Không được giao ước điều gì trái với các quy định về những vật thuộc sở hữu và tài sản chung phục vụ cho đời sống chung trong gia đình" [13, tr.120-121].

Từ những phân tích trên ta thấy rằng quy định về sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng trong pháp luật một số nước trên thế giới có nhiều quy định khác nhau. Ở các nước phương Tây đa số áp dụng hôn ước, vợ chồng tự thỏa thuận về tài sản trước và sau khi kết hôn cũng như các quy định liên quan đến tài sản chung của vợ chồng, và chỉ áp dụng theo quy định pháp luật khi mà vợ chồng không có hôn ước. Còn ở các nước XHCN thì hầu như chỉ áp dụng chế định tài sản theo quy định pháp luật, cho đến nay một số nước đã bắt đầu ghi nhận sự thỏa thuận của vợ chồng về chế độ tài sản chung. Ví dụ như Khoản 1 Điều 28 Luật HN&GĐ 2014 của Việt Nam có hiệu lực từ ngày 01/01/2015.


KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Chế độ tài sản chung của vợ chồng là tổng hợp những quy phạm pháp luật điều chỉnh về tài sản chung của vợ chồng, bao gồm các quy định về căn cứ xác lập tài sản chung, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung; các trường hợp và nguyên tắc phân chia tài sản chung giữa vợ và chồng theo luật định. Chế độ tài sản chung của vợ chồng được quy định trong pháp luật của Nhà nước như là một tất yếu khách quan, nhằm điều chỉnh quan hệ tài sản giữa vợ chồng với nhau và liên quan tới quyền lợi của những người khác, góp phần ổn định các quan hệ xã hội;

Chế độ sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng có vai trò và ý nghĩa rất quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ HN&GĐ, tạo điều kiện để vợ chồng thực hiện các quyền và nghĩa vụ về tài sản trong thời kỳ hôn nhân; góp phần điều tiết, ổn

định quan hệ tài sản trong giao lưu dân sự, kinh tế, thương mại. Đồng thời, nó còn là cơ sở pháp lý để cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về tài sản giữa vợ chồng với nhau hoặc với những người khác trên thực tế, nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng về tài sản cho các bên vợ, chồng hoặc người thứ ba tham gia giao dịch liên quan đến tài sản chung của vợ chồng.

Pháp luật HN&GĐ của Nhà nước quy định về sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng phù hợp với sự phát triển của các điều kiện kinh tế - xã hội, truyền thống, phong tục, tập quán và bản chất của chế độ chính trị, xã hội. Đã có nhiều chế độ tài sản chung của vợ chồng được dự liệu trong hệ thống pháp luật của nhiều nước trên thế giới. Nhà làm luật khi dự liệu về chế độ tài sản ước định (dựa trên sự thỏa thuận của vợ chồng trước khi kết hôn) hay chế độ tài sản pháp định (theo các căn cứ pháp luật như chế độ cộng đồng toàn sản,chế độ cộng đồng động sản và tạo sản,chế độ cộng đồng tạo sản…) đều xuất phát từ các điều kiện kinh tế - xã hội và truyền thống, phong tục, tập quán của nước đó sao cho phù hợp và đảm bảo lợi ích chung của gia đình, và lợi ích của từng cá nhân vợ chồng.

Từ sau cách mạng tháng Tám đến nay, nhà nước ta đã có những quy định về chế độ tài sản chung của vợ chồng phù hợp với sự phát triển về kinh tế - xã hội theo từng thời điểm. Luật HN&GĐ Việt Nam từ không thừa nhận vợ có quyền gì trong khối tài sản chung của vợ chồng đến có quyền bình đẳng với chồng trong quản lý, sở hữu, định đoạt tài sản chung. Các quy định của pháp luật HN&GĐ về sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng: căn cứ xác lập sở hữu chung hợp nhất, các trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng, nguyên tắc chia và hậu quả pháp lý sau khi chia tài sản chung của vợ chồng ngày càng được hoàn thiện.

Xem tất cả 123 trang.

Ngày đăng: 01/12/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí