người vợ [2, Điều 100]; [60, Điều 98].
+ Trường hợp người chồng không chu cấp để nuôi dưỡng vợ, con hoặc có hành vi phá tán tài sản của gia đình thì người vợ có quyền yêu cầu Tòa án cấm người chồng sử dụng kỷ phần của mình và tất cả các tài sản do người vợ hành nghề mà có. Tòa án có thể cho phép người vợ được quản lý, hưởng dụng tài sản đó [2, Điều 110], [60, Điều 108].
Về việc chia tài sản chung của vợ chồng, theo Điều 113 DLBK và Điều 11 DLTK thì:
- Khi một bên chết trước:
+ Khi người chồng mệnh một (chết) đi rồi, nếu người vợ cư sương thủ tiết (không tái giá) thì của chung vẫn để nguyên. Khi ấy người vợ góa được thay quyền chồng mà quản lý tài sản.
+ Khi người vợ chết trước, thì một mình người chồng trở thành chủ sở hữu tất cả tài sản chung, kể cả kỷ phần của người vợ nữa.
- Khi ly hôn:
Khi ly hôn, nếu hai vợ chồng có lập hôn khế thì chia theo các Điều khoản trong hôn khế mà hai vợ chồng đã thỏa thuận. Nếu không có hôn khế thì áp dụng Điều 112 DLBK và Điều 110 DKTK để chia. Do quan niệm khối cộng đồng tài sản chung của vợ chồng là gây dựng cho các con, nên pháp luật phân biệt hai trường hợp: Vợ chồng ly hôn mà có con chung hoặc không có con chung với nhau.
+ Trường hợp giữa hai vợ chồng không có con chung, người vợ được lấy lại kỷ phần tài sản của mình “bằng hiện vật hiện còn”. Nếu tài sản riêng của người vợ đã bị bán đi để chi dùng cho gia đình hay cho riêng người chồng thì người vợ không có quyền đòi lại. Nếu tài sản riêng của vợ hay chồng đã được tu sửa, quản lý bằng tài sản chung của vợ chồng thì phần tài sản chung đó phải được tính vào khối tài sản cộng đồng để chia. Sau khi đã trả lại cho vợ, chồng kỷ phần của vợ, chồng, phần tài sản chung của vợ chồng được chia đôi cho vợ chồng mỗi người một nửa.
+ Trường hợp hai vợ chồng có con chung: người vợ không được thu hồi toàn bộ của riêng của mình, tức những của cải đã đem về nhà chồng khi cưới và tài sản đã
Có thể bạn quan tâm!
- Sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng theo Pháp luật Việt Nam - 1
- Sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng theo Pháp luật Việt Nam - 2
- Khái Niệm Về Sở Hữu Chung Hợp Nhất Của Vợ Chồng
- Quy Định Về Sở Hữu Chung Hợp Nhất Của Vợ Chồng Trong Pháp Luật Của Một Số Nước Trên Thế Giới
- Căn Cứ Xác Lập Sở Hữu Chung Hợp Nhất Của Vợ Chồng
- Tài Sản Do Vợ Hoặc Chồng Tạo Ra Trong Thời Kỳ Hôn Nhân
Xem toàn bộ 123 trang tài liệu này.
được tạo ra trong thời kỳ hôn nhân; những tài sản ấy sẽ thuộc tài sản chung của vợ chồng do người chồng quản lý, vì của cải của vợ chồng là để dành cho các con. DLBK và DLTK đã ấn định rằng nếu vợ, chồng ly hôn mà có con với nhau thì sẽ không thanh toán tài sản chung. Theo Điều 112 DLBK dự liệu rằng nếu có con thì sau khi ly hôn người vợ được hưởng một phần của chung, phần ấy nhiều hay ít sẽ do Tòa án quyết định tùy theo công sức của người vợ. Còn theo Điều 110 DLTK thì dự liệu kỷ phần của người vợ sẽ là 1/3 số của chung, với ngụ ý rằng 1/3 chia cho chồng và 1/3 chia cho các con. Trường hợp vợ chồng ly hôn do lỗi của người vợ (phạm gian) thì phần trả cho người vợ sẽ giảm đi một nửa (1/2) [2, Điều 112] và một phần tư (1/4) [60, Điều 112 DLTK].
1.2.3. Thời kỳ miền Nam nước ta trước ngày thống nhất đất nước (1954 -1975)
Cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, theo Hiệp định Giơnevơ đất nước ta vẫn tạm thời bị chia cắt thành hai miền, với hai chế độ chính trị khác biệt. Miền Bắc được giải phóng, bước vào thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH). Ở miền Nam nước ta, sau năm 1954, đế quốc Mỹ đã thay chân thực dân Pháp tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược kiểu mới, hòng chia cắt lâu dài đất nước ta. Sự nghiệp cách mạng nước ta trong giai đoạn này thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: Cách mạng XHCN ở miền Bắc và cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền Nam. Về vấn đề pháp luật điều chỉnh các quan hệ HN &GĐ trong giai đoạn này ở miền Nam, chế độ ngụy quyền Sài Gòn theo thời gian đã cho ban hành và áp dụng ba văn bản pháp luật:
- LGĐ ngày 02/01/1959 dưới chế độ Ngô Đình Diệm gồm 135 Điều chia làm bốn thiên.
- Sắc Luật số 15/64 ngày 23/07/1964 dưới chế độ Nguyễn Khánh, quy định về giá thú, tử hệ và tài sản công cộng, gồm ba chương và 158 điều.
- BLDS ngày 20/12/1972 dưới chế độ Nguyễn Văn Thiệu.
Nhìn chung các văn bản pháp luật này đều có khuynh hướng “dân luật hóa” các quan hệ HN&GĐ, trong đó có chế độ tài sản của vợ chồng. Về chế độ tài sản của vợ chồng cả ba văn bản luật này đều dự liệu về chế độ tài sản ước định, cho phép vợ
chồng ký kết với nhau một hôn ước thỏa thuận về vấn đề tài sản từ trước khi kết hôn, miễn là sự thỏa thuận bằng hôn ước đó không trái với trật tự công cộng, thuần phong mỹ tục và quyền lợi của con [15, Điều 45], [29, Điều 49], [56, Điều 144, 145]. Trong trường hợp hai vợ chồng không lập hôn ước với nhau về tài sản thì áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo các căn cứ quy định của pháp luật (chế độ tài sản pháp định). Cả ba văn bản luật này cũng đều dự liệu chế độ tài sản của vợ chồng theo các căn cứ quy định của pháp luật, tuy nhiên, có sự khác nhau về thành phần tài sản trong khối cộng đồng, dẫn tới những quy định khác nhau trong việc quản lý, sử dụng, định đoạt và thanh toán khối hôn sản.
Luật Gia Đình ngày 02/01/1959
Theo LGĐ thì chế độ tài sản của vợ chồng cũng là chế độ cộng đồng toàn sản và chỉ áp dụng chế độ tài sản pháp định khi các cặp vợ chồng không lập hôn ước. Nội dung của chế độ tài sản pháp định được quy định là chế độ cộng đồng tài sản (của chung), nghĩa là tất cả tài sản, hoa lợi của vợ hay chồng dù có trước hay sau khi kết hôn đều là tài sản chung. Vợ chồng cùng có quyền quản trị tài sản chung. Việc mua bán, cầm cố, chuyển nhượng, cho thuê các tài sản chung của vợ chồng (bất động sản, trái phiếu, cổ phần) đều phải có sự ưng thuận bằng chữ ký của cả hai vợ chồng. Tài sản chung phải “gánh” những nợ của vợ hay chồng đã vay trước khi lập hôn thú hay trong thời kỳ hôn thú, những nợ do hành vi trái pháp luật của vợ hay chồng [15, Điều 45, 46, 47, 48, 49, 54].
Giống như DLBK và DLTK, LGĐ cũng dự liệu những tài sản (động sản hoặc bất động sản) mà vợ, chồng có từ trước khi kết hôn thuộc quyền sở hữu riêng của vợ, chồng. Tuy nhiên, trong thời kỳ hôn nhân, những tài sản này được coi là tài sản chung của vợ chồng một cách “tạm thời”; trường hợp phải phân chia tài sản của vợ chồng thì của riêng ai lại trả cho người đó.
Khác với DLBK và DLTK, LGĐ được xây dựng theo quan niệm nhằm bảo đảm quan hệ bình đẳng giữa vợ chồng [15, Điều 43], cả vợ chồng đều có đủ năng lực pháp lý. Vì vậy, trong việc thực hiện quyền sở hữu đối với tài sản chung của vợ chồng, LGĐ đã quy định: “vợ, chồng cùng quản trị khối tài sản cộng đồng” [15, Điều 49].
Tuy nhiên, quan hệ bình đẳng giữa vợ chồng về tài sản này vẫn chưa được bảo đảm thực hiện trong đời sống xã hội. Bên cạnh đó, Điều 39 LGĐ lại vẫn ghi nhận: “Người chồng là trưởng gia đình và người vợ phải cùng nhau lo sự thịnh vượng của phối hiệp phu phụ và việc nuôi dưỡng cùng giáo dục con cái” [15, Điều 39]. Ngoài ra, xã hội phong kiến thời bấy giờ vẫn còn tư tưởng lạc hậu, không chấp nhận quyền bình đẳng giữa vợ chồng.
Việc thanh toán hôn sản, theo LGĐ thì vấn đề này chỉ được đặt ra trong trường hợp một bên vợ hoặc chồng chết. Vấn đề ly hôn của vợ chồng không được LGĐ chấp nhận, vì vậy LGĐ không dự liệu việc chia tài sản của vợ chồng trong trường hợp ly hôn. Duy nhất một ngoại lệ đã cho phép tổng thống có quyền cho đôi vợ chồng được ly hôn, sau khi đã hỏi ý kiến chánh án tòa án phá án và chánh nhất tòa thượng thẩm, nơi cư trú của vợ chồng và sau khi nghe tộc trưởng hai bên cùng ý kiến, nguyện vọng của hai vợ chồng [15, Điều 55]. Nếu tổng thống cho phép vợ chồng được ly hôn, khi đó vấn đề phân chia tài sản của vợ chồng mới được giải quyết. Đối với trường hợp vợ chồng ly thân, LGĐ đã dự liệu cho khối cộng đồng tài sản vẫn tiếp tục, “Bản án tuyên bố ly thân không chấm dứt chế độ cộng đồng tài sản” [15, Điều 66]. Tuy vậy, dù ly thân mà vợ chồng không cùng sống chung với nhau, dẫn tới phải có sự thay đổi về việc quản lý tài sản chung của vợ chồng, do Tòa án quyết định.
Sắc luật số 15/64 ngày 23/07/1964 và BLDS ngày 20/12/1972 dưới chế độ ngụy quyền Sài Gòn
Hai văn bản này cũng ghi nhận chế độ tài sản ước định cho phép vợ chồng được tự do ký kết hôn ước, thỏa thuận về vấn đề tài sản của họ từ trước khi kết hôn, miễn sao không trái với thuần phong mỹ tục và trật tự công cộng [29, Điều 49]; [56, Điều 144].
Trường hợp vợ chồng không lập hôn ước, thỏa thuận về vấn đề tài sản của họ, Sắc luật số 15/64 và BLDS đã dự liệu một chế độ tài sản áp dụng cho các cặp vợ chồng, đó là chế độ cộng đồng động sản và tạo sản [29, Điều 53]; [56, Điều 150]. Loại chế độ tài sản này với thành phần khối tài sản cộng đồng và quyền quản lý của
vợ chồng đối với khối tài sản cộng đồng khác với chế độ cộng đồng toàn sản đã được thực hiện theo DLBK, DLTK và LGĐ trước đây.
Theo Điều 54 Sắc luật số 15/64 và Điều 151 BLDS năm 1972 thì khối tài sản chung của vợ chồng (thành phần tích sản) gồm có động sản và bất động sản vợ, chồng có được kể từ khi kết hôn, và hoa lợi thu được từ các loại tài sản vợ, chồng có được từ trước hoặc trong thời kỳ hôn nhân. Như vậy, theo quy định của Sắc luật số 15/64 và BLDS thì thành phần khối tài sản của vợ chồng hẹp hơn so với quy định trong DLBK, DLTK và LGĐ. Ngoài ra, Sắc luật số 15/64 và BLDS còn ghi nhận về khối tài sản riêng của vợ, chồng (nếu có).
Bên cạnh đó, tại Điều 61 Sắc luật số 15/64 và Điều 160 BLDS còn quy định khối tài sản chung của vợ chồng phải “gánh” những nợ của vợ hay chồng vay từ trước khi kết hôn (trừ những nợ được bảo đảm bởi những quyền đối với vật các bất động sản), nợ trong thời kỳ hôn nhân của vợ hay chồng, và nợ do hành vi phạm pháp của vợ hay chồng gây ra [29, Điều 55]; [56, Điều 52].
Về việc quản lý tài sản của vợ chồng Điều 42 Sắc luật số 15/64 và Điều 137 BLDS đã ghi nhận người chồng là gia trưởng và hành xử quyền gia trưởng theo quyền lợi của gia đình và con cái. Vợ cộng tác với chồng trong việc sinh hoạt gia đình, giáo dục và gây dựng cho con cái. Quy định này một lần nữa lại đặt người vợ vào tình trạng như là “vô năng lực”, với địa vị thấp kém so với người chồng – là người chủ gia đình.
Về việc thanh toán hôn sản, Sắc luật số 15/64 không dự liệu việc chia tài sản chung của vợ chồng khi một bên vợ, chồng chết trước mà chỉ dự liệu việc chia tài sản chung của vợ chồng khi vợ chồng ly thân hoặc ly hôn.
Đối với BLDS thì việc thanh toán hôn sản được đặt ra trong cả ba trường hợp. Khi vợ, chồng chết; khi vợ chồng ly hôn hoặc ly thân. Bởi vì, bên cạnh việc thừa nhận vấn đề ly thân, Sắc luật số 15/64 và BLDS năm 1972 đã thừa nhận về việc ly hôn của vợ chồng. Như vậy, khi thanh toán hôn sản cần phân biệt:
+ Nếu có hôn ước thì phải phân chia theo các Điều khoản của hôn ước;
+ Nếu không có hôn ước thì chia theo nguyên tắc;
- Tài sản của bên nào thì vẫn thuộc quyền sở hữu của bên đó;
- Tài sản của vợ chồng được chia đôi cho vợ chồng, mỗi người một nửa [29, Điều 94]; [56, Điều 201].
Đối với trường hợp ly hôn do lỗi của người vợ, chồng thì người vợ, chồng có lỗi sẽ bị mất hết những quyền lợi mà người kia dành cho hoặc do hôn ước từ khi kết hôn [29, Điều 92]; [56, Điều 200].
Với trường hợp ly thân thì việc thanh toán tài sản của vợ chồng đặt vợ, chồng rơi vào tình trạng biệt sản. Sắc luật số 15/64 đã không dự liệu cụ thể về việc này, mà chỉ quy định chung: Sự ly thân đặt vợ chồng rơi vào tình trạng tài sản riêng biệt. Tài sản sẽ phân chia... [29, Điều 97]. Nhưng ngược lại BLDS đã dự liệu khi lập hôn ước, vợ chồng có thể lựa chọn chế độ biệt sản để áp dụng cho họ [56, Điều 168]; người vợ có quyền quản lý, hưởng dụng và định đoạt tài sản riêng của mình. Cũng có thể chế độ biệt sản sẽ do Tòa án quyết định theo yêu cầu của vợ, chồng khi có lý do chính đáng [56, Điều 165]. Ngoài ra, trường hợp vợ chồng ly thân thì tài sản của vợ chồng sẽ được chia như khi ly hôn. Và ly thân không làm chấm dứt quan hệ hôn nhân của vợ chồng mà chỉ làm chấm dứt chế độ tài sản chung, việc ly thân đương nhiên đặt vợ chồng rơi vào tình trạng biệt sản [56, Điều 204].
Như vậy, quy định về sở hữu chung của vợ chồng thời kỳ này đã được nhà làm luật quy định, nhưng vẫn chưa được cụ thể. Vợ chồng có quyền tự do lập hôn ước, thỏa thuận về vấn đề tài sản của vợ chồng nhằm duy trì trong suốt thời kỳ hôn nhân. Nếu không lập hôn ước thì chế độ tài sản cộng đồng pháp định sẽ được áp dụng cho hai vợ chồng. Những văn bản pháp luật trên đây đã dự liệu chế độ cộng đồng toàn sản [15] hoặc chế độ cộng đồng động sản và tạo sản [29]; [56] với những thành phần tạo sản chung của vợ chồng, có những nội dung khác nhau. Đặc biệt, cả ba văn bản luật này vẫn bảo vệ quyền gia trưởng của người chồng trong gia đình. Vì vậy, quan hệ bất bình đẳng về tài sản giữa vợ và chồng vẫn tồn tại trong pháp luật và thực tế đời sống xã hội. Điều đó như một minh chứng thể hiện bản chất của chế độ HN&GĐ phong kiến, tư sản trong xã hội duy trì đối kháng giai cấp, quyền lợi của người phụ nữ, người vợ trong gia đình không được bảo vệ chặt chẽ. Mặt khác,
những quy định về HN&GĐ, trong đó có chế độ tài sản của vợ chồng luôn theo khuynh hướng “dân luật hóa”, coi trọng vấn đề tiền bạc, tài sản hơn là yếu tố tình cảm gắn bó trong quan hệ vợ chồng và quan hệ gia đình [13, tr.82-83].
1.2.4. Quy định về sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng theo hệ thống pháp luật của nhà nước ta từ Cách mạng tháng Tám (1945) đến nay
Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời (02/09/1945). Tính tất yếu khách quan cần phải có một hệ thống quy phạm pháp luật để Điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực của đời sống xã hội. Ngay sau cách mạng tháng Tám (1945) thành công, do điều kiện lịch sử xã hội, cách mạng Việt Nam phải đối phó với thù trong giặc ngoài, vì vậy Nhà nước ta chưa thể ban hành ngay một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh. Nhìn chung, các quan hệ dân luật và HN&GĐ từ năm 1945-1950 vẫn được điều chỉnh bởi ba văn bản luật (DLBK, DLTK, DLGYNK) do thực dân Pháp ban hành trước 1945 (theo Sắc lệnh số 90-SL ngày 10/10/1945 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã cho phép áp dụng pháp luật cũ một cách chọn lọc, miễn sao không trái với lợi ích của chính thể Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và lợi ích của nhân dân lao động).
Năm 1950 do yêu cầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đòi hỏi cần phải xóa bỏ, hạn chế ảnh hưởng của chế độ HN&GĐ thực dân, phong kiến lạc hậu. Nhà nước ta đã ban hành hai sắc lệnh điều chỉnh một số quan hệ HN&GĐ: Sắc lệnh số 97/SL ngày 22/5/1950 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa về sửa đổi một số quy lệ và chế định trong dân luật và Sắc lệnh số 159/SL ngày 17/11/1950 của chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa quy định về vấn đề ly hôn.
Sắc lệnh số 97/SL ngày 22/5/1950 chưa dự liệu cụ thể về chế độ tài sản của vợ chồng, mặc dù vậy văn bản pháp luật có hiệu lực cao nhất Hiến pháp năm 1946 của nhà nước ta đã ghi nhận “đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện” [9, Điều 9]. Sắc lệnh số 97/SL quy định: “Chồng và vợ có địa vị bình đẳng trong gia đình” [9, Điều 5] và “người đàn bà có chồng có toàn năng lực về mặt Hộ” [9, Điều 6]. Như vậy, theo các quy định này Sắc lệnh số 97/SL thì lần đầu tiên quyền gia trưởng của người chồng bị xóa bỏ, quan hệ nam nữ, vợ chồng bình đẳng về
mọi mặt (trong đó có quyền bình đẳng về tài sản trong gia đình của vợ chồng). Quy định mang tính nguyên tắc này đã thể hiện bản chất của nền pháp chế mới dân chủ, tiến bộ hẳn so với hệ thống pháp luật dưới thời thực dân, phong kiến ở nước ta.
Theo quy định của Sắc lệnh số 97/SL thì toàn bộ tài sản của vợ chồng dù có trước hay trong thời kỳ hôn nhân, không phân biệt về nguồn gốc, công sức tạo dựng... đều thuộc khối tài sản chung của vợ chồng và trên nguyên tắc bình đẳng, vợ, chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt ngang nhau đối với tài sản chung. Như vậy, so với DLBK, DLTK thì Sắc lệnh số 97/SL của Nhà nước ta đã thể hiện bản chất tốt đẹp, dân chủ của chế độ xã hội mới. Sắc lệnh đã đưa ra một số quy định nhằm bảo đảm quyền con người, quyền bình đẳng giữa nam nữ, giữa vợ và chồng về mọi phương diện mà hệ thống pháp luật dưới chế độ thực dân, phong kiến không thể có được.
Bên cạnh đó, theo Sắc lệnh số 159/SL ngày 17/11/1950 cũng ghi nhận quyền bình đẳng giữa vợ chồng khi thực hiện quyền yêu cầu ly hôn. Nhưng Sắc lệnh số 159/SL chưa quy định rõ về việc phân chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn. Song tại Điều 6 Sắc lệnh số 159/SL đã quy định Tòa án căn cứ quyền lợi của các con để quy định việc trông nom, dạy dỗ chúng, và hai vợ chồng phải cùng chịu trách nhiệm nuôi dạy các con theo khả năng.
Như vậy, theo quy định này thì khi ly hôn tài sản chung của vợ chồng phải được chia, tùy theo khả năng của mỗi bên vợ, chồng phải cùng có nghĩa vụ trong việc nuôi dạy con. Đáng tiếc là Sắc lệnh số 97/SL và Sắc lệnh số 159/SL không dự liệu về nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng. Tuy vậy, cứ chiếu theo tinh thần của những văn bản này, chúng ta cũng có thể suy luận rằng: Tài sản chung của vợ chồng phải được chia đôi, mỗi bên vợ, chồng được một nửa giá trị tài sản chung (nguyên tắc này cũng đã được áp dụng theo DLBK, DLTK trước đây) [13, tr.87].
Từ những quy định trên cho thấy, Sắc lệnh số 97/SL và sắc lệnh số 159/SL đã góp phần quan trọng nhằm hạn chế và xóa bỏ những quy định lạc hậu của chế độ thực dân, phong kiến về HN&GĐ. Đã ghi nhận sự bình đẳng giữa vợ chồng trên mọi phương diện, tạo nền tảng để xây dựng một nền pháp chế mới dân chủ và tiến bộ trong lĩnh vực HN&GĐ của Nhà nước XHCN.