Các hình thức sở hữu chung
+ Sở hữu chung theo phần: Là sở hữu chung mà trong đó phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu được xác định đối với tài sản chung [49, Điều 216, khoản 1]. Điều này có thể hiểu rằng mỗi chủ sở hữu được xác định phần sở hữu của mình.
BLDS năm 2005 quy định “Các chủ sở hữu chung cùng quản lý tài sản chung theo nguyên tắc nhất trí, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác” [49, Điều 221]. Điều này thể hiện ở việc các đồng chủ sở hữu phải cùng nhau bàn bạc để thống nhất về cách bảo quản, sử dụng tài sản trên cơ sở của nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận.
Khi tài sản thuộc sở hữu chung được sử dụng vào mục đích sản xuất, kinh doanh mà sinh lợi thì số lợi đó sẽ được chia cho các đồng chủ sở hữu theo tỷ lệ phần quyền tương ứng với mỗi người. BLDS năm 2005 quy định: “Mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi túc từ tài sản chung tương ứng với phần quyền sở hữu của mình...” [49, Điều 222, Khoản 1].
Việc định đoạt tài sản chung của mỗi đồng chủ sở hữu là việc định đoạt phần quyền của họ trong khối tài sản chung. Mỗi đồng chủ sở hữu có toàn quyền trong việc định đoạt phần quyền của mình đối với tài sản thuộc sở hữu chung mà không ai có quyền ngăn cản. Việc chuyển phần quyền của một đồng chủ sở hữu thông qua việc mua, bán, trao đổi, tặng cho, thừa kế,... cho người khác hoàn toàn không phải là việc trao cho người khác đủ một phần cụ thể của tài sản.
Sở hữu chung theo phần là hình thức cộng hợp phần tài sản của các đồng chủ sở hữu để cùng sản xuất, sử dụng, góp phần khai thác, tận dụng được mức tối đa giá trị sử dụng của tài sản. Sở hữu chung theo phần là cơ sở pháp lý để các chủ sở hữu liên doanh, liên kết, chung vốn mua sắm các tài sản hoặc xây dựng các công trình mà nếu một chủ thể riêng biệt thì không đủ khả năng để thực hiện.
Sở hữu chung theo phần là một quan hệ pháp luật dân sự về sở hữu nên nó cũng chấm dứt khi có những sự kiện pháp lý quy định tại Điều 226 BLDS năm 2005. Việc chia tài sản thuộc sở hữu chung được thực hiện theo quy định tại Điều 224 BLDS 2005 [62, tr.268-269].
+ Sở hữu chung hợp nhất: là sở hữu chung mà trong đó phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu không được xác định đối với tài sản chung. Sở hữu chung hợp nhất bao gồm sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia và sở hữu chung hợp nhất không phân chia [49, Điều 217].
+ Sở hữu chung cộng đồng: Là hình thức sở hữu của dòng họ theo huyết thống, theo cộng đồng tôn giáo hoặc cộng đồng dân cư đối với tài sản hình thành theo tập quán hoặc do các thành viên của cộng đồng quyên góp tạo dựng nên, Ví dụ: Nhà thờ, từ đường, thánh thất tôn giáo, hoặc kết cấu hạ tầng phục vụ cho cộng đồng dân cư như đường đi, giếng nước công cộng,... [62, tr.271].
Do mục đích của sở hữu chung cộng đồng là thỏa mãn chung lợi ích hợp pháp của cả cộng đồng nên tài sản chung của cộng đồng là tài sản chung hợp nhất không phân chia.
Có thể bạn quan tâm!
- Sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng theo Pháp luật Việt Nam - 1
- Sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng theo Pháp luật Việt Nam - 2
- Thời Kỳ Miền Nam Nước Ta Trước Ngày Thống Nhất Đất Nước (1954 -1975)
- Quy Định Về Sở Hữu Chung Hợp Nhất Của Vợ Chồng Trong Pháp Luật Của Một Số Nước Trên Thế Giới
- Căn Cứ Xác Lập Sở Hữu Chung Hợp Nhất Của Vợ Chồng
Xem toàn bộ 123 trang tài liệu này.
+ Sở hữu chung hỗn hợp: là phạm trù kinh tế để chỉ hình thức sở hữu đối với tài sản do các chủ sở hữu thuộc các thành phần kinh tế khác nhau góp vốn để sản xuất, kinh doanh thu lợi nhuận [49, Điều 218].
Trong sở hữu chung hỗn hợp, các chủ sở hữu thộc các thành phần kinh tế khác nhau thỏa thuận theo nguyên tắc bình đẳng, tự nguyện về tài sản và số lượng vốn góp để tiến hành sản xuất, kinh doanh nhằm thu lợi nhuận.
Sở hữu chung hỗn hợp thường tồn tại dưới mô hình tài sản của một doanh nghiệp cho nên hội đồng quản trị với tư cách là người quản lý tài sản, vốn có các quyền năng chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đối với tài sản và vốn đó, quyết định hướng sản xuất, kinh doanh phù hợp với quy định của pháp luật [62, tr.274].
1.1.3. Khái niệm về sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng
Sở hữu chung hợp nhất thông thường chỉ phát sinh trong quan hệ HN&GĐ. Khối tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất là khối tài sản do vợ chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân bằng công sức của mỗi người hoặc do được tặng cho chung, thừa kế chung. Tài sản chung của vợ chồng được dùng vào việc phục vụ nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng hoặc sản xuất kinh doanh của cả gia đình. Vợ chồng đều có quyền ngang nhau đối với khối tài sản chung. Vợ chồng cùng bàn bạc, thỏa thuận hoặc ủy
quyền cho nhau chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung. Khi một trong hai người thực hiện giao dịch mà tài sản có giá trị lớn phải được sự đồng ý của bên kia. Ngoài ra vợ, chồng có thể tự nguyện nhập khối tài sản riêng vào khối tài sản chung của gia đình.
Khối tài sản chung của vợ chồng mặc dù là khối tài sản chung hợp nhất nhưng có thể được phân chia trong một số trường hợp: chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, chia tài sản chung khi ly hôn và chia tài sản chung khi một bên chết trước.
Như vậy, sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng là hình thức sở hữu mà trong đó phần quyền, nghĩa vụ của vợ và chồng là ngang nhau đối với tài sản chung không phân biệt công sức đóng góp của mỗi bên trong khối tài sản. Và tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng là có thể phân chia được.
1.2. Khái quát các quy định về sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng trong hệ thống pháp luật Việt Nam
Sau khi kết hôn, nhu cầu phải có một khối tài sản để duy trì cuộc sống chung của vợ chồng, cũng như các nhu cầu chi tiêu gia đình, chăm sóc con cái,... Điều này dẫn đến phải có chế độ pháp lý điều chỉnh khối tài sản này: căn cứ xác lập, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung,.... Với ý nghĩa đó, pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ đã có quy định về sở hữu chung tài sản của vợ chồng.
1.2.1. Theo cổ luật
Trong xã hội phong kiến Việt Nam, các quy định về HN&GĐ chiếm một vị trí quan trọng trong các văn bản luật. Tuy nhiên, qua nghiên cứu các quy định của pháp luật về tài sản chung của vợ chồng trong cổ luật Việt Nam, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng cổ luật Việt Nam không dự liệu về chế độ tài sản của vợ chồng nói chung và về tài sản chung của vợ chồng nói riêng.
Quốc Triều Hình Luật (QTHL) được ban hành dưới triều Lê trong khoảng niên hiệu Hồng Đức (1470 -1497). QTHL không có điều khoản nào đề cập đến vấn đề tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, mà chỉ dự liệu một số trường hợp chia tài sản của vợ chồng khi một bên vợ, chồng chết trước [36, Điều 374, 375, 376]. Do pháp luật
dưới triều Lê là công cụ quyền lực chính trị của vua chúa, và được dựa theo hệ tư tưởng nho giáo. Các quy định về vấn đề tài sản của vợ chồng không rõ ràng.
Toàn bộ tài sản mà vợ, chồng có được từ trước khi kết hôn hoặc trong thời kỳ hôn nhân đều thuộc khối tài sản chung của vợ chồng. Tất cả các tài sản này đều do người chồng – chủ gia đình quản lý, khối tài sản chung của vợ chồng chỉ được chia khi một bên vợ, chồng chết trước mà giữa họ không có con... Tuy nhiên, QTHL, theo tục lệ cũng đã giành cho người vợ được tham gia vào việc quản trị tài sản chung của vợ chồng và được tự do quyết định những vấn đề sinh hoạt hằng ngày nhằm bảo đảm đời sống chung của gia đình. Đặc biệt đối với các giao dịch liên quan đến ruộng đất: mua bán, cầm cố, chuyển đổi đều phải có chồng vợ cùng điểm chỉ [3]. Thực tế trong các văn tự bán ruộng đất làm dưới triều Lê còn di lưu lại, ta thường thấy hai vợ chồng cùng đứng tên bán; “Trong thời gian giá thú, tất cả tài sản, không phân biệt nguồn gốc và bản chất đều hợp thành một khối do người chồng quản trị và sử dụng theo nhu cầu của gia đình và trong thực tế với sự cộng tác của người vợ” [32, tr.257- 258].
Những quy định trên thể hiện trong chừng mực nhất định người vợ cũng được “bình đẳng” với người chồng trong việc định đoạt tài sản chung, hoàn toàn không phải là “vô năng cách”. Quy định này của pháp luật nhà Lê tiến bộ hơn hẳn so với pháp luật của Trung Quốc cùng thời - coi người vợ hoàn toàn vô năng lực, phụ thuộc người chồng một cách tuyệt đối. Nhưng thật đáng tiếc, điều này lại được ghi nhận lại trong HVLL.
Hoàng Việt Luật Lệ (HVLL) ban hành dưới triều Nguyễn (1812) đều có các quy định về vấn đề HN&GĐ, nhưng về chế độ tài sản của vợ chồng không quy định như một chế định riêng rẽ và cụ thể. HVLL sao chép nguyên văn của luật nhà Thanh nên không có một điều khoản nào về vấn đề tài sản của vợ chồng.
Như vậy, từ những quy định trên ta nhận thấy rằng pháp luật thời kỳ này đã không dự liệu cụ thể chế độ tài sản chung của vợ chồng. Pháp luật quy định tất cả của cải của vợ chồng dù có trước hay sau khi kết hôn đều là tài sản chung của vợ chồng. Do theo tư tưởng nho giáo nên các quy định trong pháp luật thời kỳ này thể
hiện sự bất định đẳng giữa vợ và chồng, người chồng được coi là trụ cột của gia đình, là người chủ gia đình và có toàn quyền định đoạt tài sản vì quyền lợi của gia đình. Nói chung người vợ thời kỳ này không có quyền năng trong quản lý, định đoạt tài sản chung của gia đình.
1.2.2. Trong thời kỳ Pháp thuộc
Thời kỳ Pháp thuộc kéo dài gần một trăm năm, với chính sách nham hiểm “chia để trị”, thực dân Pháp đã chia nước ta thành ba miền và ở từng miền cho ban hành và áp dụng các bộ luật riêng điều chỉnh các quan hệ HN&GĐ, trong đó có chế độ tài sản chung của vợ chồng.
- Ở Bắc Kỳ áp dụng BLDS năm 1931 (DLBK)
- Ở Trung Kỳ áp dụng BLDS năm 1936 (DLTK)
- Ở Nam Kỳ cho ban hành tập Dân luật giản yếu năm 1883 (DLGYNK)
Nhìn chung, những quy định của pháp luật thời kỳ này nhằm điều chỉnh các quan hệ HN&GĐ đã mang những sắc thái mới so với Cổ luật. Bên cạnh những tục lệ tồn tại trong xã hội phong kiến từ lâu đời, nhà làm luật đã quy định về chế độ HN&GĐ, trong đó có chế độ tài sản của vợ chồng.
Tập Dân luật giản yếu Nam Kỳ năm 1883 (Tập DLGYNK)
Đối với tài sản trong gia đình thì Tập DLGYNK không có quy định về tài sản chung của vợ chồng. Chính vì vậy mà ở Nam Kỳ, trong quá trình thực hiện đã có những quan điểm khác nhau khi áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng trong thực tế. Có quan điểm cho rằng không có tài sản cộng đồng giữa vợ và chồng, “khối cộng đồng tài sản không có trong luật Việt Nam, theo nguyên tắc người chồng là chúa tể tuyệt đối tất cả các tài sản bất luận là của ai hoặc do đâu mang lại” [3, tr.140]. Thời kỳ đầu, các án lệ tại Nam Kỳ đã áp dụng theo quan niệm người vợ có của riêng và chế độ hôn sản theo tục lệ là chế độ cộng đồng tài sản; nhưng sau đó các án lệ lại đổi hướng không công nhận quyền có tài sản riêng của người vợ.
Theo quy định của Tập DLGYNK thời kỳ này thì không có chế độ sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng. Luật quy định toàn bộ tài sản trong gia đình đều thuộc quyền sở hữu và quản lý của người chồng trong thời kỳ hôn nhân cũng như
sau khi vợ chết. Trong trường hợp người vợ chết thì chồng là chủ sở hữu đối với toàn bộ tài sản của gia đình do hiệu lực hôn nhân chứ không phải là hưởng gia tài của người vợ; nhưng nếu người chồng chết trước thì người vợ chỉ có quyền hưởng dụng thu lợi trên toàn bộ tài sản gia đình khi còn ở góa.
Ta có thể thấy quy định toàn bộ tài sản trong gia đình đều thuộc sở hữu của người chồng, điều này thể hiện sự bất công đối với người vợ.
Dân luật Bắc Kỳ (DLBK 1931) và Dân luật Trung Kỳ (DLTK 1936)
Vấn đề tài sản giữa vợ chồng đã có những quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật (DLBK 1931, DLTK 1936). Được ban hành sau, nên DLTK đã có một số sửa đổi cho phù hợp hơn so với DLBK.
DLBK quy định chế độ tài sản theo pháp định chỉ áp dụng khi vợ chồng không có tư ước, tư ước ấy không trái với các phong tục tập quán và quyền lợi của người chồng trong gia đình. Nếu vợ chồng lập tư ước về tài sản thì khi đã làm giá thú sẽ không được thay đổi gì nữa. Quy định chế độ tài sản ước định này lần đầu tiên được dự liệu trong hệ thống pháp luật Việt Nam, nên mặc dù được hai bộ luật DLBK, DLBK quy định, nhưng các cặp vợ chồng thường không thỏa thuận lựa chọn loại chế độ tài sản này.
Trong trường hợp vợ chồng không thỏa thuận lập hôn khế khi kết lập giá thú, DLBK và DLBK đều dự liệu một chế độ tài sản pháp định để áp dụng cho họ đó là chế độ cộng đồng toàn sản. Tức là mọi tài sản của vợ và của chồng không kể có trước hay sau khi kết hôn đều là tài sản chung của vợ chồng. Theo DLBK và DLTK quy định “Nếu hai vợ chồng không có tư ước với nhau thì cứ theo lệ hợp nhất tài sản, nghĩa là bao nhiêu lợi tức tài sản của chồng và của vợ hợp làm một mà chung nhau” [2,điều 106, 107]; [60, Điều 104, 105].
Theo quy định của hai bộ luật DLBK và DLTK thì trước khi kết hôn vợ hoặc chồng có thể có tài sản riêng nhưng kể từ khi kết hôn trong suốt thời kỳ hôn nhân thì các tài sản riêng đó (bao gồm cả động sản và bất động sản) được hợp nhất thành khối tài sản chung của vợ chồng. Tuy nhiên, đó chỉ là sự hợp nhất tạm thời trong thời kỳ hôn nhân. Chỉ có những tài sản do hai vợ chồng tạo ra trong thời kỳ hôn
nhân mới là tài sản chung chính thức. Khi hôn nhân chấm dứt thì các tài sản riêng của vợ chồng đã được hợp nhất tạm thời vào khối tài sản chung của vợ chồng lại được tách ra để chia theo nguyên tác tài sản riêng của bên nào thì bên đó có quyền lấy lại, còn đối với tài sản chung sẽ được chia đôi cho vợ chồng.
Theo Điều 106, 107 DLBK và Điều 104, Điều 105 DLTK quy định thì cả các tài sản (lương bổng, lợi tức thu được từ tài sản của vợ chồng) trong thời kỳ hôn nhân, dù là động sản hay bất động sản đều thuộc khối tài sản chung của hai vợ chồng; trừ khi vợ, chồng chứng minh được tài sản đó là tài sản riêng của mình. Giải pháp này có ý nghĩa giúp cho việc chia tài sản chung của vợ chồng được thuận lợi và đơn giản, vì không nhất thiết vợ chồng phải chứng minh một tài sản nào đó là tài sản chung của vợ chồng (theo phương pháp suy đoán là tài sản chung từ chế độ cộng đồng toàn sản). Ngoài ra, nếu bên vợ, chồng cho rằng đó là tài sản riêng của mình thì đương nhiên phải có nghĩa vụ chứng minh.
Theo quy định tại Điều 111 DLBK và Điều 109 DLTK thì tất cả các khoản nợ của chồng, dù vay trước khi kết hôn hoặc là trong thời kỳ hôn nhân, không phân biệt là do ký kết hợp đồng hoặc do hành vi phạm pháp mà gây ra thì đều phải coi là nợ của hai vợ chồng và do khối cộng đồng phải gánh chịu. Riêng đối với những món nợ do hành vi phạm pháp của chồng gây ra, mặc dù Điều 111 DLBK và Điều 109 DLTK không dự liệu rõ ràng nhưng xét trên cơ sở đạo lý và theo lẽ tất nhiên khối cộng đồng phải gánh chịu vì người chồng (theo luật định) luôn là người chủ gia đình. Đối với việc quản lý, sử dụng và định đoạt tài sản của gia đình, DLBK và DLTK đều dự liệu trong việc quản lý và định đoạt tài sản chung của gia đình thì cần có sự phân biệt về quyền hạn của vợ và của chồng theo từng trường hợp cụ thể:
- Việc mà vợ chồng có thể tự mình thực hiện.
Theo Điều 100, Điều 111 DLBK và Điều 98, Điều 109 DLTK thì đối với những nhu cầu chung gia đình, vợ hoặc chồng đều có thể đại diện cho gia đình để giao dịch và khối tài sản cộng đồng được bảo đảm cho các giao dịch do vợ chồng kết ước với người khác. Thông thường, việc vợ chồng sử dụng tài sản chung nhằm bảo đảm nhu cầu thiết yếu hàng ngày của gia đình (nhu cầu gia vụ: ăn, ở chữa
bệnh...) thì pháp luật đều đương nhiên coi là đã có sự thỏa thuận của hai vợ chồng khi định đoạt tài sản chung.
- Việc phải do cả hai vợ chồng cùng thực hiện.
Theo Điều 109 DLBK và Điều 107 DLTK thì ngoài việc quản lý thường, vợ và chồng muốn định đoạt tài sản chung phải cùng nhau thỏa thuận (đồng ý) sự đồng ý có thể là công nhiên hoặc mặc nhiên.
- Việc một mình chồng làm được, còn vợ phải xin phép chồng.
Theo Điều 98 DLBK và Điều 104 DLTK thì đối với các việc như lập hộ, vay mượn, thuê mướn, đi kiện... người chồng có quyền tự mình thực hiện; vả lại, người vợ chỉ được thực hiện nếu được chồng cho phép (ưng thuận); sự cho phép của người chồng có thể là công nhiên hay mặc nhiên.
- Đặc quyền của người chồng khi định đoạt tài sản chung của vợ chồng. Đoạn 2 Điều 109 DLBK, đoạn 2 Điều 107 DLTK quy định: Người chồng có thể định đoạt tài sản chung không cần phải vợ bằng lòng cũng được, miễn là dùng vào việc có lợi ích cho gia đình, trừ bất động sản là tài sản riêng của người vợ.
Như vậy, trên cơ sở phân định quyền hạn của vợ chồng trong việc thực hiện quyền sở hữu tài sản chung của vợ chồng theo luật định, người chồng là chủ gia đình có quyển tự mình định đoạt tài sản chung, dù tài sản là động sản hay bất động sản, miễn là vì quyền lợi của gia đình. Ngược lại, người vợ (thông thường) chỉ được đại diện trong những nhu cầu gia vụ; nếu định đoạt những tài sản có giá trị lớn của gia đình, nếu phải được chồng ưng thuận, việc ưng thuận của người chồng phải bằng văn bản có chữ ký của người chồng. Điều này thật bất công đối với người vợ trong gia đình, quan hệ bất bình đẳng giữa nam và nước thực dân, phong kiến ở nước ta trước đây [13, tr.68].
Bên cạnh đó, pháp luật còn dự liệu về phương thức bảo vệ khối tài sản của gia đình.
+ Trường hợp người vợ một mình thực hiện các giao dịch liên quan đến tài sản chung của vợ chồng mà lạm dụng quyền đó, ảnh hưởng tới quyền lợi của gia đình thì người chồng có quyền thu hồi một phần hoặc toàn bộ quyền của