Nhóm 2:nợ cần chú ý, bao gồm nợ quá hạn dưới 90 ngày và nợ cơ cấu lại theo thời hạn trả nợ.
Nhóm 3:nợ dưới tiêu chuẩn, bao gồm các khoản nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày và các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày.
Nhóm 4:nợ nghi ngờ, bao gồm các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày và các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày.
Nhóm 5: nợ có khả năng mất vốn, , bao gồm các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày, các khoản nợ khoanh chờ chính phủ xử lý, các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày.
Theo cách phân loại nợ trên thì RRTD được chia thành 3 loại:
Nợ dưới tiêu chuẩn hay là nợ nhóm 3. Đây là các khoản nợ mà ngân hàng đánh giá là không có khả năng thu hồi nợ gốc và lãi đúng hạn và có khả năng tổn thất một phần vốn.
Nợ nghi ngờ hay là nợ nhóm 4. Đây là loại nợ mà ngân hàng đánh giá khả năng tổn thất cao.
Nợ có khả năng mất vốn hay là nợ nhóm 5. Đây là loại nợ mà ngân hàng đánh giá là có khả năng mất vốn.
3. Các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng ngân hàng
3.1. Nguyên nhân khách quan từ môi trường bên ngoài
Có thể bạn quan tâm!
- Rủi ro tín dụng và một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dung tại ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam - 1
- Rủi ro tín dụng và một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dung tại ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam - 2
- Chỉ Tiêu Tỷ Lệ Nợ Có Khả Năng Mất Vốn (Khó Đòi).
- Thực Trạng Hoạt Động Tín Dụng Tại Bidv
- Thực Trạng Hoạt Động Tín Dụng Của Bidv
Xem toàn bộ 117 trang tài liệu này.
Nhóm các nguyên nhân khách quan từ môi trường bên ngoài xảy ra ngoài ý muốn và tầm kiểm soát của con người trong một thời điểm nào đó.
3.1.1. Môi trường chính trị, pháp lý.
Tình hình chính trị và hệ thống pháp luật ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động tín dụng của ngân hàng nói riêng. Tình hình chính trị của nước ta ổn định là một môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Tuy nhiên, hiện nay hệ thống pháp luật của chúng ta chưa đầy đủ, chưa hoàn thiện, còn nhiều bất cập chưa đáp ứng sự đòi hỏi
của xã hội ngày càng phát triển. Nhiều chính sách kinh tế, chế độ quản lý không ổn định ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của DN và ngân hàng như: chính sách cổ phần hóa và sắp xếp lại các DNNN của chính phủ cũng làm cho kế hoạch sản xuất kinh doanh của DN không ổn định; chính sách thuế thường có xu hướng tăng thu cho ngân sách nhà nước và không cho phép ngân hàng khấu trừ dự phòng lỗ hay là thuế đánh vào các công cụ tài chính và các giao dịch cụ thể như séc, nghiệp vụ ghi nợ của ngân hàng làm tăng gánh nặng thuế cho ngân hàng. Ngoài ra khả năng thực thi pháp luật, ý thức thi hành pháp luật của người dân ảnh hưởng không nhỏ đến rủi ro đạo đức của người đi vay. Bên cạnh đó các quy định thường xuyên thay đổi làm cho người đi vay không kip thích nghi cũng là một nguyên nhân khá phổ biến gây ra RRTD đang tồn tại trong hệ thống NHTM Việt Nam.
3.1.2. Môi trường kinh tế xã hội.
Ngân hàng là DN kinh doanh tiền tệ do vậy rất nhạy cảm với những biến động trong nền kinh tế. Môi trường kinh tế bao gồm các yếu tố như: chu kỳ kinh tế (phát triển, hưng thịnh, khủng hoảng hay suy thoái), lãi suất, lạm phát, tỷ giá hối đoái, thất nghiệp, chính sách tiền tệ...Trong các yếu tố đó thì yếu tố điển hình thường được đề cập là chu kỳ kinh tế. Trong thời kỳ tăng trưởng, hưng thịnh của nền kinh tế, hầu hết hoạt động kinh doanh nói chung là thuận lợi, xác suất dẫn đến vỡ nợ, không trả được nợ thấp do đó nguồn trả nợ được đảm bảo, hoạt động tín dụng an toàn hơn. Tuy nhiên, khi nền kinh tế rơi vào suy thoái, khủng hoảng, khi đó lạm phát thường tăng cao, đồng nội tệ bị mất giá làm cho hoạt động kinh doanh sản xuất trong nước trở nên khó khăn, đình trệ. Thêm vào đó, trong thời kỳ này ngân hàng trung ương (NHTW) thường áp dụng chính sách thắt chặt tiền tệ càng làm cho các chủ thể kinh tế hoạt động kém hiệu quả, lợi nhuận suy giảm, ảnh hưởng đến nguồn trả nợ cho ngân hàng. Thông thường khi nền kinh tế suy thoái thì ngân hàng đặc biệt gặp rủi ro với các khoản vay của các DN sản xuất, kinh doanh hàng hóa cao cấp như: ôtô, tủ lạnh, điều hòa...hay cả lĩnh vực bất động sản. Ví dụ, thị trường bất
động sản đóng băng từ giai đoạn đầu 2005 đến nay, các dự án vay vốn để kinh doanh bất động sản không bán được nhà do vậy không có nguồn trả nợ, ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng.
Bên cạnh đó, tình hình kinh tế xã hội trong nước chịu ảnh hưởng lớn bởi những biến động của nền kinh tế khu vực và trên thế giới nhất là trong xu thế hội nhập. Đó cũng là nguyên nhân làm phát sinh rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các DN dẫn đến RRTD cho ngân hàng. Ví dụ, trong giai đoạn 6/2005 - 6/2006 giá thép thế giới biến động theo xu hướng giảm. Các DN gặp khó khăn với những lô thép nhập trước đó với giá cao trong khi phải bán ra với giá thấp. DN đứng trước hai sự lựa chọn là chấp nhận bán hàng với giá thấp, chịu lỗ để có tiền trả ngân hàng hoặc giữ hàng chờ giá phục hồi song lại không có tiền trả nợ vay ngân hàng dẫn đến tình trạng nợ quá hạn (NQH).
Ngoài ra, việc nước ta gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO vừa mang đến những yếu tố thuận lợi, đồng thời cũng đưa đến những rủi ro như sự cạnh tranh về giá cả, chất lượng, hàng giả mạo, thiếu thông tin về sản phẩm và thị trường...cũng gây nên rủi ro trong kinh doanh cho các DN, và cũng ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng của ngân hàng.
3.1.3. Môi trường tự nhiên.
Hoạt động sản xuất kinh doanh của các cá nhân, tổ chức phụ thuộc nhiều vào thời tiết, đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. Điều kiện tự nhiên là yếu tố khó dự đoán, xảy ra bất ngờ gây thiệt hại lớn, nằm ngoài tầm kiểm soát của con người. Vì vậy, khi có thiên tai, dịch bệnh xảy ra, khách hàng của ngân hàng sẽ bị tổn thất từ đó ngân hàng có nguy cơ không thu hồi được vốn và lãi đúng hạn, ngân hàng phải chia sẽ rủi ro với khách hàng. Ở Việt Nam do thời tiết diễn biến phức tạp nên môi trường tự nhiên được coi là nguyên nhân gây rủi ro lớn cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng khi đầu tư phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn.
3.2. Nguyên nhân chủ quan từ phía người đi vay
Các nguyên nhân dẫn đến RRTD thuộc nhóm này chủ yếu bao gồm:
Thứ nhất, năng lực quản trị, kinh nghiệm điều hành của khách hàng vay vốn còn hạn chế. Khi lập dự án nếu DN không tính hết những biến động thị trường, không đánh giá đúng đối thủ cạnh tranh thì có thể dẫn đến thua lỗ. Trên thực tế , 30% DN phá sản là do khả năng điều hành của lãnh đạo DN yếu kém.
Thứ hai, khách hàng cố tình sử dụng vốn sai mục đích. Khi cho vay các ngân hàng luôn kỳ vọng khách hàng sẽ thực hiện tốt phương án đầu tư như đã trình bày với ngân hàng để hoàn trả đầy đủ và đúng hạn gốc và lãi vay. Nhưng do thông tin bất cân xứng sau khi quan hệ tín dụng diễn ra có thể tạo nên rủi ro về đạo đức từ phía khách hàng, tức là khách hàng cố tình sử dụng vốn sai mục đích đi vay. Vì sau khi được cấp tín dụng người đi vay luôn có xu hướng thực hiện các dự án có mức độ rủi ro cao hơn so với mức rủi ro mà ngân hàng mong đợi. Bởi vì dự án có rủi ro cao hơn được kỳ vọng là mang lại lợi nhuận cao hơn và nếu thành công thì chủ đầu tư sẽ được hưởng khoản lợi nhuận cao hơn trong khi chỉ phải trả cho ngân hàng khoản lãi vay đã xác định trước.
Thứ ba, khách hàng không trung thực. Khách hàng cố tình cung cấp thông tin sai lệch về hoạt động sản xuất kinh doanh, báo cáo tài chính, hợp đồng kinh tế, phương án sử dụng tiền vay, giấy tờ pháp lý về tài sản...Ví dụ khách hàng đem tài sản thế chấp, cầm cố đi nhượng bán trong khi vẫn còn dư nợ tại ngân hàng.
Chính vì vậy, công tác phân tích khách hàng là vô cùng quan trọng. Nếu cán bộ tín dụng (CBTD) của ngân hàng làm tốt được việc này sẽ giảm thiểu RRTD.
3.3. Nguyên nhân từ chủ quan phía ngân hàng
Một là, thông tin về khách hàng không đầy đủ, thể hiện: chứng từ lưu trữ sổ sách của ngân hàng về khách hàng như số dư tài khoản, lịch sử của các khoản vay trước đây, các quan hệ thương mại của khách hàng và bạn hàng...chưa đầy đủ. CBTD không cập nhật thường xuyên thông tin về khách hàng. Bên cạnh đó, hiện nay các NHTM chưa xây dựng mối liên kết hỗ trợ thông tin về khách hàng với
nhau. Thông tin về khách hàng không đầy đủ, chính xác dẫn đến việc quyết định cho vay không hợp lý và có thể không thu hồi được nợ vay. Hiện tượng thiếu thông tin này gọi là “thông tin không cân xứng”. Điều này đưa đến “sự lựa chọn đối nghịch” (adverse selection) và “rủi ro đạo đức” (moral hazard). Lựa chọn đối nghịch xảy ra trong quan hệ tín dụng khi khách hàng vay có nhiều khả năng tạo ra một kết cục không mong muốn (đối nghịch) - tức là rủi ro không trả được nợ - là những người tích cực tìm vay nhất và do thông tin không cân xứng nên có nhiều khả năng được ngân hàng lựa chọn nhất. Thông tin không cân xứng có thể dẫn đến rủi ro đạo đức sau khi giao dịch. Đó là hiện tượng người vay sử dụng khoản tiền vay sai mục đích đã cam kết với ngân hàng.
Hai là, chính sách và quy trình cho vay chưa hợp lý, còn nhiều bất cập như: thiếu bộ phận chuyên trách có trình độ chuyên môn theo dõi, quản lý rủi ro, quản lý hạn mức tín dụng tối đa cho từng khách hàng, chưa có dự báo cần thiết cho từng thời kỳ, đầu tư tín dụng vào nhiều dự án lớn, tỷ trọng cho vay dài hạn cao trong khi đó nguồn cho dài hạn thấp, đặt mục tiêu lợi nhuận cao quá mức so với khả năng của bản thân. RRTD có thể xuất phát từ tất cả các khâu của quá trình cấp tín dụng của NHTM bao gồm: giai đoạn trước khi cho vay, giai đoạn giải ngân và giai đoạn quản lý khoản vay. Ở giai đoạn trước khi cho vay, việc không chấp hành nghiêm túc chế độ tín dụng, điều kiện cho vay, không xem xét đánh giá đúng khoản vay sẽ dẫn đến RRTD trong tương lai. Ví dụ: tại thành phố Hồ Chí Minh, qua khảo sát cho thấy có nhiều ngân hàng cho một khách hàng vay vượt quá 10% vốn tự có như Eximbank là 74%, Sacombank là 48%, Sài Gòn công thương là 33%...Do tập trung vốn quá lớn vào một khách hàng nên khi những DN này thua lỗ thì ngân hàng chịu RRTD lớn. Còn ở giai đoạn giải ngân và giai đoạn quản lý khoản vaythì việc giải ngân không tuân thủ điều kiện, có sự nới lỏng trong quá trình giám sát sau khi cho vay.
Ba là, chất lượng CBTD thể hiện thông qua trình độ nghiệp vụ, năng lực và đạo đức còn hạn chế. CBTD phải làm việc với nhiều khách hàng ở nhiều lĩnh vực
kinh doanh khác nhau, nhiều vùng lãnh thổ, thậm chí nhiều quốc gia khác nhau, vì vậy để đánh giá tốt khách hàng ngoài kiến thức về tín dụng họ phải có kiến thức về các lĩnh vực kinh doanh khác nhau, thường xuyên cập nhật thông tin về kinh tế, xã hội, pháp luật. Trình độ nghiệp vụ và năng lực của CBTD yếu kém như sự hạn chế trong quá trình thẩm định dự án, phân tích đánh giá khách hàng, không có khả năng dự báo các vấn đề liên quan đến khách hàng là kết quả của những quyết định cho vay không hợp lý, đầu tư vào những dự án kém hiệu quả. Ngoài ra, một số CBTD chưa nhận thức hết vai trò quan trọng của nghiệp vụ tín dụng nên làm ẩu, thiếu tinh thần trách nhiệm thậm chí cố tình làm sai quy trình tín dụng để nhận những khoản lợi từ khách hàng. Đạo đức CBTD sa sút thì RRTD xảy ra là tất yếu.
3.4. Nguyên nhân từ phía các tài sản đảm bảo
Trường hợp đảm bảo bằng tài sản: TSĐB là tài sản thuộc sở hữu của người đi vay dùng để cầm cố, thế chấp cho ngân hàng. Một TSĐB phải thỏa mãn 3 điều kiện: dễ định giá, dễ cho ngân hàng quyền sở hữu hợp pháp, có tính khả mại (khả năng chuyển nhượng trên thị trường) cao. Tuy nhiên, TSĐB có thể bị suy giảm giá trị do giá cả thị trường biến động theo chiều hướng bất lợi (ví dụ như thị trường bất động sản đóng băng hay có xu hướng giảm) hoặc do bản thân tài sản trong quá trình sử dụng bị hao mòn lớn hơn dự kiến. Ngoài ra, ngân hàng có thể gặp khó khăn trong việc tiếp cận, nắm giũ và xử lý TSĐB. Ví dụ, TSĐB có vấn đề tranh chấp pháp lý như: tài sản được đem đảm bảo cho nhiều khoản nhưng không có sự thống nhất phân chia quyền hạn trên tài sản đó.
Trường hợp bảo lãnh: Bảo lãnh là sự đảm bảo gián tiếp có ba bên tham gia trong đó bên thứ ba, tức là bên bảo lãnh đồng ý chịu trách nhiệm về khoản nợ của bên thứ hai là khách hàng của ngân hàng khi người này không trả được nợ cho bên thứ nhất là ngân hàng. Vấn đề chủ yếu là dù ngân hàng có cố gắng giải thích về trách nhiệm trả nợ tiềm tàng đến đâu thì người bảo lãnh cũng không bao giờ chờ đợi
sẽ bị gọi đến trả tiền. ngân hàng khó có thể thuyết phục họ trả tiền, và thực tế nhiều trường hợp ngân hàng đã kiện ra tòa.
4. Ảnh hưởng của RRTD đối với hoạt động ngân hàng và nền kinh tế
4.1. Ảnh hưởng RRTD đối với hoạt động của NHTM
4.1.1. RRTD làm giảm khả năng thanh toán của ngân hàng.
Hoạt động đầu tiên và chủ yếu của ngân hàng là nhận tiền gửi và thực hiện cho vay trên nguyên tắc hoàn trả. Khi hoạt động tín dụng gặp rủi ro không thu hồi đủ cả gốc và lãi theo hợp đồng tín dụng, trong khi đó ngân hàng vẫn phải thực hiện thanh toán đúng thời hạn cho người gửi tiền như cam kết. Do vậy, ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong khâu thanh toán. Bên cạnh đó khi RRTD xảy ra thì các chi phí khác tiếp tục phát sinh có tính chất cộng hưởng như chi phí quản lý nợ xấu và các chi phí khác có liên quan sẽ càng làm giảm khả năng thanh toán của ngân hàng.
4.1.2. RRTD làm giảm uy tín của ngân hàng.
Đối với một ngân hàng chữ tín rất quan trọng. Nếu một NHTM có tỷ lệ nợ xấu trên tổng nợ lớn hoặc có những thông tin trên phương tiện thông tin đại chúng về việc ngân hàng không thu hồi được nợ hoặc bị NHNN đưa vào diện kiểm soát đặc biệt thì uy tín của ngân hàng đó giảm sút một cách nghiêm trọng. Không có cá nhân, tổ chức nào muốn gửi tiền vào một ngân hàng như vậy vì họ không biết đồng vốn họ bỏ vào ngân hàng đó có đảm bảo an toàn và sinh lời hay không.
4.1.3. RRTD làm giảm lợi nhuận của NHTM
Lợi nhuận của ngân hàng là chênh giữa cho vay và lãi huy động vốn. Tuy nhiên RRTD làm cho doanh thu thấp (do không thu được lãi vay thậm chí thu không đủ vốn gốc), nên lợi nhuận thấp, có khi là lỗ. Hơn nữa kể cả trường hợp không lỗ nhưng RRTD cao ngân hàng phải tăng trích lập quỹ dự phòng RRTD làm cho lợi nhuận còn lại thấp.
4.1.4. RRTD có thể làm cho ngân hàng phá sản
Nếu RRTD ở mức độ ngân hàng không thể kiểm soát, không có khả năng ứng phó sẽ gây phản ứng dây chuyền trong dân chúng, họ sẽ đổ xô đến ngân hàng rút tiền, rút giao dịch làm cho ngân hàng mất khả năng thanh toán, sẽ đi đến phá sản.
4.2. Ảnh hưởng RRTD đến nền kinh tế
Trong nền kinh tế hiện đại hầu như mọi hoạt động của cá nhân và tổ chức đều liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến hoạt động ngân hàng. Khi một ngân hàng gặp phải RRTD hay mất khả năng thanh toán thì người gửi tiền của ngân hàng đó và cả ngân hàng khác hoang mang lo sợ ồ ạt đến rút tiền làm cho toàn bộ hệ thống ngân hàng gặp khó khăn thanh toán. Khi khả năng thanh toán của ngân hàng bị giảm sút, ngân hàng sẽ không tiếp tục tài trợ vốn cho các cá nhân, tổ chức mà phải thu hồi vốn trước hạn. Như vậy, hoạt động kinh doanh của các đối tượng nhận tài trợ sẽ bị ảnh hưởng lớn. Hơn nữa sự sụp đổ của các ngân hàng ảnh hưởng lớn đến toàn bộ nền kinh tế. Nó làm cho nền kinh tế suy thoái, sức mua giảm, thất nghiệp tăng, xã hội mất ổn định.
5. Các tiêu chí và mô hình đánh giá và lượng hóa RRTD
5.1. Các tiêu chí đánh giá RRTD
5.1.1. Chỉ tiêu nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn.
NQH là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi đã quá hạn.
Tỷ lệ quá hạn được đo bằng tỷ lệ phần trăm số nợ quá hạn trên tổng dư nợ.
Chỉ tiêu này cho biết trong mỗi 100 đơn vị tiền tệ ngân hàng cấp tín dụng thì có bao nhiêu đơn vị tiền tệ ngân hàng không có khả năng thu hồi đúng hạn tại thời điểm xác định. Tỷ lệ này càng thấp thì chất lượng tín dụng càng cao, tỷ lệ này càng cao thì RRTD càng lớn. Theo Ngân hàng Thế giới World Bank, tỷ lệ này ở mức