văn minh, TĐYN không chỉ là phương pháp cách mạng mà tiếp tục là nhiệm vụ chính trị căn bản của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân. PTTĐYN đã bước sang một giai đoạn mới với những nội dung mới, ngày càng phát triển mạnh mẽ và rộng khắp. Qua các PTTĐYN đã xuất hiện nhiều tập thể, cá nhân anh hùng, chiến sĩ thi đua, các điển hình tiên tiến trong cả nước. TĐYN thực sự đã mang lại những thành tựu quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế. Tuy nhiên, tình hình trong nước, quốc tế và khu vực hiện có nhiều chuyển biến mau lẹ chứa đựng nhiều cơ hội và thách thức có tác động trực tiếp đến quá trình phát động, tổ chức các PTTĐYN. Bên cạnh những thành tựu quan trọng đạt được, TĐYN hiện vẫn đang đứng trước nhiều tồn tại, yếu kém cần thiết phải được khắc phục.
Tìm hiểu lịch sử nghiên cứu vấn đề này cho thấy, đã có nhiều tác giả tiếp cận, tìm hiểu về PTTĐYN nói chung, PTTĐYN ở miền Bắc trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nói riêng. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào về PTTĐYN ở miền Bắc một cách toàn diện, hệ thống và sâu sắc. Việc nghiên cứu các PTTĐYN ở miền Bắc trong những năm 1961-1975 trên các phương diện: nhân tố tác động, quá trình hình thành, phát triển, kết quả…từ đó đánh giá đặc điểm, ý nghĩa của nó trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc là việc làm cần thiết, có ý nghĩa khoa học và thực tiễn. Kết quả nghiên cứu không chỉ là cơ sở cho việc tái hiện chân thực các PTTĐYN với những điển hình tiêu biểu mà còn là cơ sở khẳng định chủ trương đúng đắn của Đảng, sự vận dụng linh hoạt của các cấp ủy, đoàn thể ở địa phương; giúp làm sáng tỏ vị trí, vai trò của miền Bắc trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của một hậu phương chiến lược. Kinh nghiệm rút ra từ việc nghiên cứu vấn đề này có ý nghĩa thiết thực trong việc tiếp tục phát huy tinh thần yêu nước, thực hành thi đua tích cực và hiệu quả trong giai đoạn hiện nay.
Xuất phát sự quan tâm đặc biệt dành cho các PTTĐYN cùng với sự nhận thức đầy đủ về ý nghĩa lý luận và thực tiễn của vấn đề, nghiên cứu sinh quyết định chọn đề tài: “Phong trào thi đua yêu nước ở miền Bắc trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước những năm 1961-1975” làm luận án tiến sĩ, chuyên ngành Lịch sử Việt Nam.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu, tái hiện một cách hệ thống quá trình hình thành, phát triển và đóng góp của PTTĐYN trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước những năm
1961-1975; từ đó rút ra một số đặc điểm, ý nghĩa, kinh nghiệm để vận dụng vào quá trình phát động, tổ chức có hiệu quả các PTTĐYN trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Có thể bạn quan tâm!
- Phong trào thi đua yêu nước ở miền Bắc trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước những năm 1961 - 1975 - 1
- Các Công Trình Nghiên Cứu Về Phong Trào Thi Đua Yêu Nước Ở Miền Bắc Trong Kháng Chiến Chống Mỹ, Cứu Nước
- Nhận Xét Và Hướng Nghiên Cứu Của Luận Án
- Thực Tiễn Phong Trào Thi Đua Yêu Nước Trước Năm 1961
Xem toàn bộ 209 trang tài liệu này.
- Tổng quan tình hình nghiên cứu, đánh giá các kết quả nghiên cứu, xác định hướng tiếp cận và nội dung luận án cần tiếp tục nghiên cứu, giải quyết.
- Làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn, nhân tố tác động đến quá trình phát động và tổ chức các PTTĐYN ở miền Bắc trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước những năm 1961-1975.
- Tái hiện thực tiễn PTTĐYN ở miền Bắc trong kháng chiến chống Mỹ những năm 1961-1975 thông qua phân tích quá trình hình thành, các giai đoạn phát triển và kết quả nổi bật một số PTTĐYN tiêu biểu.
- Luận giải một số đặc điểm, đánh giá ý nghĩa của PTTĐYN ở miền Bắc trong kháng chiến chống Mỹ, những năm 1961-1975; đúc rút một số kinh nghiệm có thể kế thừa, vận dụng vào quá trình phát động, tổ chức các phong trào TĐYN trong giai đoạn hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: phong trào thi đua yêu nước ở miền Bắc trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước những năm 1961-1975.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về thời gian: từ năm 1961-1975 (từ ngày Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Nghị quyết 07-NQ/TW “Về đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước đảm bảo hoàn thành toàn diện và vượt kế hoạch Nhà nước năm 1961 và 5 năm lần thứ nhất”(26/1/1961) đến khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước kết thúc thắng lợi).
- Phạm vi về không gian: trên phạm vi miền Bắc (vùng lãnh thổ do chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quản lý hành chính, kể từ phía bắc vĩ tuyến 17, nay tương ứng với phần địa giới hành chính phía bắc tỉnh Quảng Trị), đặc biệt là các địa phương có PTTĐYN tiêu biểu (Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Thái Bình, Quảng Bình...).
- Phạm vi về nội dung nghiên cứu: bối cảnh lịch sử, quá trình hình thành và thực tiễn PTTĐYN ở miền Bắc ở một số ngành, giới, tầng lớp trong xã hội, cụ thể là tập trung vào các phong trào: “Gió Đại Phong”, “Sóng Duyên Hải”, “Trống Bắc Lý”, “Cờ Ba nhất”, “Ba sẵn sàng”, “Ba đảm đang”…
4. Nguồn tài liệu
- Hệ thống văn kiện của Đảng, tổ chức chính trị-xã hội; các tác phẩm của
Chủ tịch Hồ Chí Minh và lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quân đội về thi đua yêu nước.
- Các công trình nghiên cứu về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và lịch sử các bộ, ban, ngành, tỉnh, địa phương, lịch sử các giới, tầng lớp xã hội…ở miền Bắc trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
- Các công trình nghiên cứu về PTTĐYN qua các thời kỳ, nhất là nghiên cứu về PTTĐYN ở miền Bắc trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; kỷ yếu hội thảo, luận văn, luận án, bài báo khoa học… có liên quan đến PTTĐYN.
- Các hồi ký, nhật ký, chuyện kể về những tấm gương điển hình trong PTTĐYN ở miền Bắc những năm 1961-1975.
Luận án đặc biệt chú trọng khai thác, sử dụng nguồn tài liệu lưu trữ tại Trung tâm lưu trữ quốc gia, Trung tâm lưu trữ Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Viện Lịch sử Đảng.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Dựa trên quan điểm phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về thi đua và thi đua yêu nước.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Bên cạnh hai phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic, luận án kết hợp sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khác như: so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê. Trong đó:
Phương pháp lịch sử được sử dụng trong việc nghiên cứu quá trình hình thành, phát triển của các PTTĐYN tiêu biểu ở miền Bắc theo một trình tự liên tục với những nhân chứng và số liệu lịch sử trong không gian và thời gian cụ thể nhằm phục dựng chân thực diễn tiến của PTTĐYN qua các giai đoạn với tính chất và khuynh hướng phát triển của nó.
Phương pháp logic được sử dụng khi nghiên cứu những chuyển biến của PTTĐYN ở các giai đoạn phát triển, phân tích, đánh giá các nhận định, rút ra những nhận xét về đặc điểm, ý nghĩa của PTTĐYN, trên cơ sở những căn cứ logic và luận chứng khoa học để rút ra những kinh nghiệm vận dụng.
Phương pháp so sánh (so sánh đồng đại và so sánh lịch đại) được sử dụng trong việc nhận diện những điểm tương đồng và khác biệt nhằm làm rõ đặc điểm, tính chất nổi bật của PTTĐYN trong từng giai đoạn cũng như sự khác nhau, bước phát triển của PTTĐYN giữa các giai đoạn.
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở sử dụng linh hoạt các phương pháp.
6. Đóng góp mới của luận án
- Cung cấp hệ thống tư liệu lịch sử về PTTĐYN, đặc biệt là PTTĐYN ở miền Bắc trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước những năm 1961-1975.
- Góp phần làm rõ cơ sở hình thành các PTTĐYN, đặc biệt làm rõ sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị-xã hội trong việc phát động và tổ chức thực hiện PTTĐYN.
- Phục dựng một cách khách quan, khoa học một số PTTĐYN điển hình ở miền Bắc qua hai giai đoạn 1961-1965 và 1965-1975; làm rõ giá trị to lớn của các PTTĐYN đó đối với sự phát triển của miền Bắc và đối với thắng lợi của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của dân tộc Việt Nam (1961-1975).
- Rút ra đặc điểm, ý nghĩa của PTTĐYN ở miền Bắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ những năm 1961-1975, cung cấp luận cứ khoa học và một số kinh nghiệm có thể tham khảo, vận dụng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
- Kết quả nghiên cứu của luận án còn góp phần giáo dục truyền thống cách mạng, có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy và học tập lịch sử, nhất là chuyên đề về thi đua yêu nước.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung của Luận án gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án Chương 2: Phong trào thi đua yêu nước ở miền Bắc từ năm 1961 đến năm 1965 Chương 3: Phong trào thi đua yêu nước ở miền Bắc từ năm 1965 đến năm 1975 Chương 4: Nhận xét và kinh nghiệm
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
PTTĐYN ở miền Bắc trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước những năm 1961-1975 là đề tài thu hút sự quan tâm của giới nghiên cứu, lãnh đạo Đảng, Nhà nước, những người trực tiếp hoạt động trong lĩnh vực thi đua-khen thưởng... Qua khảo sát nguồn tư liệu thu thập được, có thể nhận thấy vấn đề này đã được tiếp cận nhiều góc độ và mức độ khác nhau và tổng quan thành các nhóm sau:
1.1.1. Các công trình nghiên cứu về thi đua ở các nước XHCN
- Tác phẩm “Bàn về thi đua xã hội chủ nghĩa” của V.I Lênin và J.Stalin, xuất bản năm 1959 [101] là nghiên cứu với những luận giải sâu sắc về thi đua XHCN. V.I.Lênin đã phân tích kỹ tâm lý của công nhân và người lao động trong điều kiện họ chưa thực sự nhận thức rõ vai trò làm chủ của mình vì từng cam chịu làm nô lệ quá lâu. Chính từ lý do đó, theo V.I.Lênin, công tác tổ chức có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc khơi dậy ở họ ý thức và tinh thần trách nhiệm. Ông cho rằng:“Hiện nay, một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất, nếu không phải là nhiệm vụ quan trọng hơn cả, là phát triển rộng rãi chừng nào hay chừng ấy óc sáng kiến tự do của công nhân, của tất cả những người lao động và nói chung, của tất cả những người bị bóc lột, trong lao động sáng tạo của họ về mặt tổ chức”[101, tr.11]. Ở một khía cạnh khác, J.Stalin chỉ rõ: “Hình như không còn phải hoài nghi gì nữa, việc thi đua của hàng triệu quần chúng công nhân hiện đang phát triển rộng lớn, nếu không phải là sự kiện quan trọng nhất trong công cuộc kiến thiết của chúng ta, thì cũng là một trong những sự kiện quan trọng nhất”[101, tr.193]. Đồng thời với việc luận dẫn nhiều khẳng định của V.I.Lênin về thi đua trong điều kiện CNXH, J.Stalin đã phân tích sự khác nhau về bản chất giữa thi đua XHCN với cạnh tranh trong xã hội tư bản.
- Cuốn “Tổ chức thi đua như thế nào?” của V.I.Lênin, xuất bản năm 1976
[102] là công trình phê phán CNTB và cạnh tranh trong xã hội TBCN. Trên cơ sở đó khẳng định tổ chức thi đua như một nhiệm vụ trong chế độ XHCN:“Nhiệm vụ của chúng ta hiện nay, khi chính phủ xã hội chủ nghĩa đang cầm quyền, là phải tổ chức thi đua” [102, tr.8]; khẳng định tính ưu việt của thi đua XHCN, tác giả làm rõ sự khác nhau căn bản giữa lao động của người công nhân trong xã hội tư bản và trong xã hội XHCN; làm rõ ý nghĩa của thi đua XHCN, khả năng áp dụng,
thu hút, tổ chức, tạo điều kiện cho thi đua của người lao động.
- Trong cuốn “Những người trinh sát của tương lai” của X.Ghéc-sơ-Béc, xuất bản năm 1962 [164], bên cạnh việc dẫn luận quan điểm của V.I.Lênin về thi đua trong trong chế độ XHCN đã chỉ rõ việc tổ chức TĐYN là nhiệm vụ được Đảng Cộng sản Bôn-sê-vich Nga và V.I.Lênin đặc biệt quan tâm. Nhiệm vụ đó được tiến hành thường xuyên, liên tục, sự ra đời và phát triển của các phong trào là có sự kế thừa. Kết quả của các PTTĐ phản ánh tính đúng đắn về lý luận cũng như vai trò của V.I.Lênin, góp phần quan trọng vào quá trình giải quyết nhiệm vụ chính trị trong từng thời kỳ.
- Cuốn “Thi đua xã hội chủ nghĩa là như thế nào” của I-a-cốp Svét-xơ, xuất bản năm 1975 [88] là công trình khái lược một số quan điểm cơ bản của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về nguồn gốc, bản chất, nguyên tắc tổ chức thi đua trong xã hội XHCN [88, tr.5-22]; trình bày sự ra đời của PTTĐ XHCN ở Liên Xô ngay từ những ngày đầu tiên sau thắng lợi của Cách mạng tháng Mười bằng Ngày thứ Bảy cộng sản được tổ chức năm 1919 với sự tham gia của 15 công nhân trạm sửa chữa đầu máy xe lửa Mátxcơva Xoóc-ti-rô-anai-a trên đường sắt Mát-xcơva-Ca-dan và sự phát triển rộng rãi của phong trào này vào năm 1920, với Ngày thứ Bảy cộng sản toàn tỉnh và toàn Nga (thu hút 15 triệu người lao động tham gia) và sự phát triển mạnh mẽ của phong trào này vào những năm sau đó. Theo tác giả, “những ngày thứ bảy cộng sản đầu tiên là tiền đề quan trọng để phát triển PTTĐ XHCN” ở Liên Xô [88, tr.27]. Tác giả cuốn sách còn đồng thời làm rõ những bước tiến quan trọng của PTTĐ XHCN ở Liên Xô, đặc biệt là từ năm 1930 (khi thi đua XHCN thực sự trở thành phong trào rộng rãi của giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao động Liên Xô) qua nhiều PTTĐ cụ thể của các cấp ngành, từ đó khẳng định được giá trị lý luận và thực tiễn to lớn của nó đối với sự phát triển sản xuất, giáo dục thái độ đối với lao động, đối với tài sản XHCN. Không chỉ cung cấp những vấn đề lý luận cơ bản về thi đua XHCN, nội dung cuốn sách còn là minh chứng sinh động cho sự phát triển sôi nổi của PTTĐ ở Liên Xô qua các thời kỳ.
- Cuốn “Kinh nghiệm tổ chức thi đua xã hội chủ nghĩa trong một xưởng máy” của Thạch Lam và Quý Nghĩa, xuất bản năm 1959 [94] là tài liệu giới thiệu về xưởng máy quốc doanh Thượng Hải. Nhờ tổ chức Đảng và các tổ chức khác trong nhà máy coi trọng và mở rộng thi đua trong quần chúng công nhân mà PTTĐ ở nhà máy đã lôi cuốn trên 90% công nhân tham gia. Trong quá trình tổ
chức và mở rộng thi đua, xưởng máy quốc doanh Thượng Hải đã để lại nhiều kinh nghiệm tốt, đặc biệt là kinh nghiệm về công tác tuyên truyền cổ động, công tác tổ chức thi đua ở các phòng, ban, công tác tổng kết, bình bầu khen thưởng và vấn đề xây dựng nề nếp công tác thường xuyên của Công đoàn. Công trình khẳng định tính tất yếu và những nguyên tắc cơ bản của thi đua XHCN, đặc biệt cung cấp nhiều kinh nghiệm bổ ích cho những người trực tiếp làm công tác thi đua- khen thưởng.
- Cuốn “Vài nét về phong trào thi đua Thiên Lý Mã”, xuất bản năm 1964,
[159] là nghiên cứu phản ánh quá trình công nhân Triều Tiên xây dựng CNXH trên nửa phần đất nước đã được giải phóng sau khi đánh tan cuộc vũ trang xâm lược của đế quốc Mỹ. Giai cấp công nhân Triều Tiên đã cùng với toàn dân sáng tạo ra nhiều hình thức thi đua phong phú, trong đó Thiên Lý Mã được đánh giá là một điển hình. Phong trào Thiên Lý Mã là trường học giáo dục nhân dân lao động thành những con người cộng sản chủ nghĩa. Công trình đề cập đến bản chất của phong trào tổ, đội Thiên Lý Mã; sự phát sinh, phát triển cũng như ý nghĩa, tác dụng của phong trào Thiên Lý Mã…Đồng thời chỉ ra những kinh nghiệm phong phú về vận động tổ chức, lãnh đạo thi đua, lãnh đạo sản xuất, cải tiến kỹ thuật, giáo dục tư tưởng, tuyên truyền cổ động, phổ biến và lãnh đạo công nhân quán triệt đường lối của Đảng Lao động Triều Tiên.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu ở trong nước
1.1.2.1. Công trình nghiên cứu về cuộc kháng chiến chống Mỹ và về hậu phương miền Bắc có đề cập đến phong trào thi đua yêu nước
- Nhóm công trình là sách và các đề tài khoa học của các cơ quan Trung ương, địa phương, của cá nhân, đơn vị viết về cuộc kháng chiến chống Mỹ, về hậu phương miền Bắc có đề cập đến PTTĐYN khá phong phú được phản ánh ở nhiều cấp độ và trên nhiều khía cạnh.
+ Cuốn “Thi đua yêu nước-trước kia và hiện nay” của Nguyễn Văn Tạo, xuất bản năm 1958 [133] là công trình đầu tiên có cái nhìn bao quát về TĐYN qua hai thời kỳ. Theo tác giả, nếu TĐYN trong kháng chiến (1945-1954) là thi đua để giết giặc, giải phóng đất nước thì TĐYN trong hòa bình (1954-1958) là khôi phục kinh tế và phát triển văn hóa để hàn gắn vết thương chiến tranh, cải thiện đời sống nhân dân. Tác giả cho rằng: kiến thiết miền Bắc tiến lên CNXH là phát huy truyền thống thi đua yêu nước với nội dung thi đua XHCN. Đề cập đến vấn đề lãnh đạo thi đua và phương pháp tổ chức thi đua (phần VI) tác giả chỉ rõ
mối quan hệ giữa yêu nước với yêu CNXH, từ đó làm rõ động lực của TĐYN, trong đó nhấn mạnh “Phong trào thi đua yêu nước là một sáng tạo rất đặc sắc của cách mạng Việt Nam, theo đường lối chủ nghĩa Mác-Lênin và những kinh nghiệm quý báu của Liên Xô, Trung Quốc….Thi đua là một phong trào cách mạng, một phương pháp công tác cách mạng. Chỉ có dưới sự lãnh đạo của một chính đảng cách mạng, dưới một chính thể cách mạng, thì mới có một phong trào quần chúng thi đua mạnh mẽ, bồng bột, phấn khởi, vì lợi ích của cách mạng và lợi ích của bản thân mình” [133, tr.82-83].
Từ năm 1961, thực tiễn PTTĐYN dưới sự lãnh đạo của Đảng thực sự lớn mạnh với sự đa dạng về nội dung, sự phong phú về hình thức. Bước ngoặt quan trọng này đã được phản ánh trong một số công trình nghiên cứu. Tiêu biểu như:
+ Cuốn sách Bước tiến mới của phong trào thi đua yêu nước trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, xuất bản năm 1962 [55] là tập hợp nhiều bài phát biểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước tại Đại hội liên hoan anh hùng, chiến sĩ thi đua toàn quốc lần thứ ba (1962). Mỗi bài phát biểu trong cuốn sách là những phân tích, đánh giá mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc mà nếu đặt trong mối quan hệ đối chiếu, so sánh, người đọc sẽ có cái nhìn tổng quan về những vấn đề lý luận chung, những nội dung cơ bản cũng như thành tựu, hạn chế của TĐYN trong giai đoạn 1958-1962;
+ Cuốn Đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, phấn đấu hoàn thành toàn diện và vượt mức kế hoạch Nhà nước của Lê Thanh Nghị, xuất bản năm 1963
[118] đã phân tích sâu sắc, có hệ thống và hết sức thuyết phục về những tiến bộ, những khuyết điểm của PTTĐ năm 1962. Trên cơ sở đó chỉ rõ phương hướng và nội dung thi đua năm 1963, những công việc cần làm nhằm tiếp tục đẩy mạnh PTTĐYN.
+ Từ năm 1964, PTTĐYN với tinh thần “mỗi người làm việc bằng hai, ra sức xây dựng và bảo vệ miền Bắc, tích cực ủng hộ cách mạng giải phóng miền Nam”, PTTĐ phấn đấu trở thành tổ, đội lao động XHCN diễn ra sôi nổi và có những bước tiến quan trọng trong hầu khắp các xí nghiệp, công trường, cơ quan, bệnh viện, trường học...Nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả đề cập đến PTTĐ phấn đấu trở thành tổ, đội lao động XHCN được xuất bản trong thời gian này. Có thể kể đến: cuốn Tổ lao động xã hội chủ nghĩa nâng cao năng suất lao động của tác giả Lê Hồng Tâm [134]. Tác giả khẳng định: không ngừng nâng cao năng suất lao động là thực hiện “mỗi người làm việc bằng hai” vì CNXH và