TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:
RỦI RO TÍN DỤNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM
Sinh viên thực hiện : Nguyễn Thị Diệu Hà
Lớp : Anh 5-K42-KT&KDQT
Có thể bạn quan tâm!
- Rủi ro tín dụng và một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dung tại ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam - 2
- Các Nguyên Nhân Dẫn Đến Rủi Ro Tín Dụng Ngân Hàng
- Chỉ Tiêu Tỷ Lệ Nợ Có Khả Năng Mất Vốn (Khó Đòi).
Xem toàn bộ 117 trang tài liệu này.
Giáo viên hướng dẫn : PGS.TS Vũ Sỹ Tuấn
Hà Nội, 11/2007
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh đất nước chuyển mình hòa nhập với thế giới, hệ thống ngân hàng thương mại nước ta đã góp phần quan trọng trong việc ổn định lưu thông tiền tệ, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Hoạt động cơ bản nhất của ngân hàng thương mại là hoạt động tín dụng. Đây là hoạt động mang lại cho ngân hàng nguồn thu nhập lớn nhất song cũng mang lại nhiều rủi ro nhất. Tác động của rủi ro tín dụng đối với một ngân hàng thương mại là hết sức to lớn mà hậu quả là kết quả kinh doanh của ngân hàng bị giảm sút, trong nhiều trường hợp nếu rủi ro tín dụng quá lớn có thể đưa ngân hàng đến tình trạng phá sản. Vì vậy, việc tìm ra giải pháp để hạn chế rủi ro tín dụng luôn là mối quan tâm hàng đầu của các nhà quản lý ngân hàng cũng như các nhà nghiên cứu.
Xuất phát từ thực tế đó cùng với quá trình thực tập tại Sở giao dịch ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, em nhận thấy rủi ro tín dụng đang là vấn đề mang tính cấp thiết của hệ thống ngân hàng thương mại nước ta nói chung và ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam nói riêng. Chính vì vậy em đã lựa chọn đề tài: “ Rủi ro tín dụng và một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam” làm đề tài cho khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Khóa luận tập trung nghiên cứu lý thuyết về rủi ro tín dụng và các mô hình phân tích, đánh giá, đo lường rủi ro tín dụng. Bên cạnh đó, đưa ra và phân tích kinh nghiệm phòng ngừa rủi ro tín dụng của một số ngân hàng trên thế giới.
Phân tích, đánh giá thực trạng rủi ro tín dụng tại ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam trong thời gian qua.
Đề xuất một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Khóa luận nghiên cứu về rủi ro tín dụng và thực trạng rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay tại ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Trên cơ sở đó nghiên cứu các giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay tại ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu khóa luận, phương pháp nghiên cứu được sử dụng là phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp thống kê, so sánh, phân tích, diễn giải.
5. Kết cấu khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khóa luận gồm 3 chương sau:
Chương 1:Những vấn đề cơ bản về rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại
Chương 2:Thực trạng rủi ro tín dụng tại ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam Chương 3:Một số giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
Trước hết, em xin chân thành cảm ơn PGS.TS Vũ Sỹ Tuấn đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn em hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.
Em xin cảm ơn các thầy cô giáo đã cung cấp cho em những kiến thức vô cùng quý báu trong suốt quá trình học tập ở trường Đại học Ngoại Thương. Đồng thời em cũng gửi lời cám ơn đến các cô chú, anh chị công tác tại Sở giao dịch I ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã tạo điều kiện cho em hoàn thành khóa luận.
Do kiến thức còn hạn chế nên khóa luận của em không tránh khỏi những thiếu sót, kính mong các thầy cô giáo góp ý, chỉ bảo giúp em nhận thức sâu sắc hơn về vấn đề này.
CHƯƠNG I:NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
I. Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại (NHTM)
1. Hoạt động cơ bản của NHTM
NHTM là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế, thực hiện kinh doanh tiền tệ trong đó sử dụng chủ yếu là vốn nhàn rỗi huy động trong xã hội để cho vay, đầu tư và thực hiện các dịch vụ ngân hàng khác. Theo điều 20 Luật các tổ chức tín dụng của Việt Nam số 20/2004/QH11 “Ngân hàng thương mại là một loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan”, trong đó “ hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ thanh toán”. Như vậy về cơ bản một NHTM có các hoạt động chính sau:
- Hoạt động nhận tiền gửi:
Tiền gửi là nguồn vốn quan trọng nhất, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn huy động của NHTM. Hoạt động kinh doanh của ngân hàng chủ yếu từ nguồn vốn huy động, chiếm khoảng 70 - 80% trên tổng nguồn vốn kinh doanh; không giống như các doanh nghiệp (DN) hoạt động sản xuất kinh doanh, vốn là hàng hóa để kinh doanh. Ngân hàng nhận tiền gửi từ các cá nhân, tổ chức kinh tế, các tổ chức tín dụng (TCTD) khác hoặc phát hành các giấy tờ có giá (chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu), hoặc đi vay từ các TCTD, ngân hàng nhà nước (NHNN).
- Cho vay:
Đây là hoạt động trong đó ngân hàng sử dụng số tiền huy động được cung cấp cho người đi vay một khoản tiền nhất định để sản xuất, kinh doanh, đầu tư, tiêu dùng hoặc để đáp ứng nhu cầu thiếu hụt vốn trong thanh toán của các TCTD. Khi thực hiện hoạt động này ngân hàng phải đảm bảo thu hồi cả vốn và tiền lãi. Vì tính
quan trọng của hoạt động này là tạo ra lợi nhuận, quyết định đến khả năng tồn tại và phát triển của ngân hàng nên nó được xem là hoạt động kinh doanh chủ chốt của NHTM. Bên cạnh đó, khi kinh tế ngày càng phát triển thì loại hình cho vay cũng trở nên vô cùng đa dạng. Các ngân hàng cũng có thể cung cấp tín dụng thông qua các công cụ chiết khấu như: hối phiếu, kỳ phiếu, trái phiếu…
- Dịch vụ thanh toán:
NHTM thay mặt khách hàng thực hiện thanh toán cho việc mua hàng hóa, dịch vụ của khách hàng.
- Các hoạt động khác:
+ Đầu tư: NHTM sử dụng nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của mình đầu tư kiếm lời thông qua các hình thức như: tham gia góp vốn, tài trợ dự án, mua cổ phiếu, trái phiếu công ty, trái phiếu chính phủ...Thông qua đó ngân hàng không những nhận được một khoản thu nhập mà còn phân tán rủi ro trong hoạt động kinh doanh.
+ Môi giới: ngân hàng thực hiện vai trò môi giới giữa tổ chức phát hành cổ phiếu, trái phiếu với nhà đầu tư chứng khoán như: chuyển các lệnh trên thị trường chứng khoán, đảm nhiệm việc mua bán trái phiếu công ty...
+ Cho thuê tài chính: Đây là hoạt động tín dụng trung và dài hạn trên cơ sở hợp đồng cho thuê tài sản giữa bên cho thuê là NHTM và khách hàng thuê. Khi kết thúc thời hạn thuê bên thuê được quyền mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo các điều kiện đã thỏa thuận trong hợp đồng.
+ Dịch vụ bảo lãnh: Là sự cam kết của ngân hàng về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng trong trường hợp khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ cam kết với bên có quyền.
+ Kinh doanh ngoại hối: ngân hàng được phép mua bán các loại ngoại tệ khác nhau trên cơ sở chênh lệch giá mua và bán, đồng thời tham gia điều tiết thị trường ngoại hối.
+ Dịch vụ ủy thác: ngân hàng thực hiện dịch vụ ủy thác theo yêu cầu của khách hàng bao gồm: bảo quản tài sản, các giấy tờ có giá và chứng thư quan trọng, mua hộ chứng khoán, thanh toán hộ khách hàng...
2. Hoạt động tín dụng của NHTM
2.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng
2.1.1. Tín dụng.
Tín dụng (credit) có nguồn gốc từ tiếng La Tinh “credo” có nghĩa là tin tưởng, tín nhiệm. Hay nói cách khác là sử dụng sự tin tưởng để thực hiện các quan hệ vay mượn một lượng giá trị vật chất hoặc tiền tệ trong một thời gian nhất định.
Quan hệ tín dụng là quan hệ chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị (dưới hình thức tiền tệ hoặc hiện vật) từ người sở hữu sang người sử dụng để sau một thời gian nhất định thu hồi về một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu. Tín dụng biểu hiện ra bên ngoài là sự vận động đơn phương của giá trị thuộc hai quá trình ngược chiều nhau trong một khoản thời gian cụ thể.
Giá trị (hàng hóa, tiền tệ)
Người cho vay Người đi vay
Giá trị (hàng hóa, tiền tệ)
Người cho vay Người đi vay
Tóm lại, tín dụng là quan hệ vay mượn giữa các chủ thể trong nền kinh tế, trong đó chủ thể này chuyển nhượng cho chủ thể khác quyền sử dụng một lượng giá trị (có thể dưới hình thức hàng hóa thông thường hoặc tiền tệ) với những điều kiện mà hai bên đã thỏa thuận dựa trên nguyên tắc có hoàn trả.
2.1.2. Tín dụng ngân hàng.
Trong nền kinh tế thị trường, tín dụng ngân hàng được coi là hình thức tín dụng phát triển, giữ vị trí chủ đạo trong hệ thống tín dụng. Nếu xem xét tín dụng như là một chức năng cơ bản của ngân hàng thì tín dụng được hiểu như sau: Tín
dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa bên cho vay (ngân hàng
và các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, DN và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến thời hạn thanh toán.
Như vậy ngân hàng vừa đóng vai trò là người đi vay vừa đóng vai trò là người cho vay. Trong phạm vi luận văn này, chỉ xem xét tín dụng ngân hàng dưới góc độ: ngân hàng là người cho vay.
2.2. Nguyên tắc tín dụng ngân hàng.
Hoạt động tín dụng của NHTM dựa trên một số nguyên tắc nhất định:
Thứ nhất, cho vay phải có mục đích.
Mục đích đi vay được ghi rõ trong hợp đồng tín dụng như phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh, tiêu dùng hay đầu tư dự án...đảm bảo cho ngân hàng không tài trợ cho các hoạt động trái pháp luật và mục đích đi vay đó đã được ngân hàng thẩm định. Ngân hàng cho rằng khách hàng sử dụng vốn đi vay đúng mục đích thì sẽ hoàn trả cả gốc và lãi đúng kỳ hạn.
Thứ hai, Vay phải có đảm bảo.
Bảo đảm tín dụng là việc bảo vệ quyền lợi của người cho vay dựa trên cơ sở thế chấp, cầm cố tài sản thuộc sở hữu của người đi vay hoặc bão lãnh của bên thứ ba. NHTM coi bảo đảm tín dụng là nguồn thu nợ thứ hai khi nguồn thu nợ thứ nhất không thể thanh toán được nợ.
Thứ ba, Hoàn trả cả gốc lẫn lãi đúng kỳ hạn.
Khách hàng phải cam kết hoàn trả cả nợ gốc và lãi vốn vay đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Các khoản tín dụng của ngân hàng có nguồn gốc chủ yếu từ các khoản tiền gửi của khách hàng và các khoản ngân hàng vay mượn. Ngân hàng có trách nhiệm hoàn trả cả gốc và lãi như đã cam kết. Do đó ngân hàng luôn yêu cầu người đi vay phải thực hiện đúng cam kết.
2.3. Phân loại tín dụng ngân hàng
2.3.1. Căn cứ vào thời hạn tín dụng.
Tín dụng ngắn hạn: Là các khoản cho vay mà thời hạn dưới 1 năm. Khoản tín dụng này thường được dùng để đảm bảo nhu cầu thanh toán đến hạn, bổ sung nhu cầu vốn lưu động hoặc đáp ứng nhu cầu chi tiêu cá nhân. Đây là loại hình tín dụng có mức rủi ro thấp vì thời hạn hoàn vốn nhanh.
Tín dụng trung hạn:Là các khoản cho vay có thời hạn từ 1 đến 5 năm, được sử dụng chủ yếu để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới thiết bị kỹ thuật, xây dựng các công trình có quy mô nhỏ có thời hạn thu hồi vốn nhanh. Đây là loại tín dụng có mức rủi ro cao.
Tín dụng dài hạn:Là các khoản cho vay có thời hạn trên 5 năm, được sử dụng để đáp ứng các nhu cầu dài hạn như: xây dựng cơ bản, cải tiến, đầu tư công nghệ mới, mở rộng sản xuất với quy mô lớn. Đây là loại hình tín dụng có mức rủi ro cao nhất.
2.3.2. Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng.
Tín dụng có đảm bảo:Là loại tín dụng được ngân hàng cung cấp nhưng phải có tài sản thế chấp hay cầm cố hoặc có sự bảo lãnh của người thứ ba. Sự đảm bảo là căn cứ pháp lý để ngân hàng có thêm nguồn thu nợ thứ hai, bổ sung nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn.
Tín dụng không có đảm bảo:Là loại tín dụng không có tài sản cầm cố, thế chấp hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng.
2.3.3. Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn tín dụng.
Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hóa: Là loại tín dụng cung cấp cho các DN tiến hành sản xuất và kinh doanh
Tín dụng tiêu dùng: Là loại tín dụng cung cấp cho DN, cá nhân để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng.
2.3.4. Căn cứ vào phương thức cho vay.