lượng ngày một tốt hơn, và được nhiều thị trường khó tính như Hoa Kỳ, EU, và Nhật Bản chấp nhận.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp dệt may đã xây dựng được mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhiều nhà nhập khẩu, nhiều tập đoàn tiêu thụ lớn trên thế giới. Bản thân các doanh nghiệp Việt Nam cũng được bạn hàng đánh giá là có lợi thế về chi phí lao động, kỹ năng và tay nghề may tốt.
Cuối cùng, Việt Nam được đánh giá cao nhờ ổn định chính trị và an toàn về xã hội, có sức hấp dẫn đối với các thương nhân và các nhà đầu tư nước ngoài. Bản thân việc Việt Nam tích cực tham gia hội nhập kinh tế khu vực và thế giới cũng mở rộng tiếp cận thị trường cho hàng hóa xuất khẩu nói chung và hàng dệt may xuất khẩu nói riêng, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam vẫn thể hiện xu hướng tăng trong thời gian qua.
Tuy vậy, ngành dệt may vẫn còn những điểm yếu nhất định. May xuất khẩu phần lớn theo phương thức gia công, công tác thiết kế mẫu, mốt chưa phát triển, tỷ lệ làm hàng theo phương thức FOB thấp, hiệu quả sản xuất thấp.
Trong khi đó, ngành dệt và công nghiệp phụ trợ còn yếu, phát triển chưa t- ương xứng với ngành may, không đủ nguồn nguyên phụ liệu đạt chất lượng xuất khẩu để cung cấp cho ngành may, do đó giá trị gia tăng không cao. Như đã phân tích ở trên, tính theo giá so sánh, giá trị sản phẩm của ngành dệt luôn tăng chậm hơn so với giá trị sản phẩm của ngành may mặc, cho thấy sự phụ thuộc của ngành may mặc đối với nguyên phụ liệu nhập khẩu.
Hơn nữa, hầu hết các doanh nghiệp dệt may là vừa và nhỏ, khả năng huy động vốn đầu tư thấp, hạn chế khả năng đổi mới công nghệ, trang thiết bị. Chính quy mô nhỏ đã khiến các doanh nghiệp chưa đạt được hiệu quả kinh tế nhờ quy mô, và chỉ có thể cung ứng cho một thị trường nhất định. Do đó, khi thị trường gặp vấn đề, các doanh nghiệp dệt may sẽ gặp khó khăn trong việc điều chỉnh phương thức thâm nhập thị trường và/hoặc chuyển đổi sang thị trường khác. Những khó khăn, ít nhất là ban đầu, trong việc chuyển đổi định hướng sang thị trường nội địa trong thời
điểm các thị trường xuất khẩu chính như Hoa Kỳ, EU đều gặp suy thoái kinh tế chính là những dẫn chứng tiêu biểu.
Mặt khác, kỹ năng quản lý sản xuất và kỹ thuật còn kém, đào tạo chưa bài bản, năng suất thấp, mặt hàng còn phổ thông, chưa đa dạng. Năng lực tiếp thị còn hạn chế, phần lớn các doanh nghiệp dệt may chưa xây dựng được thương hiệu của mình, chưa xây dựng được chiến lược dài hạn cho doanh nghiệp.
Có thể bạn quan tâm!
- Vượt Rào Cản Kỹ Thuật Đối Với Hàng Dệt May Xuất Khẩu
- Kinh Nghiệm Của Một Số Nước Về Vượt Qua Rào Cản Kỹ Thuật Đối Với Hàng Dệt May Xuất Khẩu Và Bài Học Cho Việt Nam.
- Khái Quát Về Xuất Khẩu Hàng Dệt May Của Việt Nam Hiện Nay.
- Các Rào Cản Kỹ Thuật Đối Với Hàng Dmxk Sang Thị Trường Eu
- Đánh Giá Tác Động Của Rào Cản Kỹ Thuật Của Các Thị Trường Nhập Khẩu Chính Đến Hàng Dệt May Xuất Khẩu Của Việt Nam.
- Thực Trạng Vượt Rào Cản Kỹ Thuật Đối Với Hàng Dệt May Xuất Khẩu Của Việt Nam Thời Gian Qua.
Xem toàn bộ 184 trang tài liệu này.
Ngành dệt may có thể tận dụng một số cơ hội để phát triển xuất khẩu trong thời kỳ hiện nay. Sản xuất hàng dệt may đang có xu hướng chuyển dịch sang các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam, qua đó tạo thêm cơ hội và nguồn lực mới cho các doanh nghiệp dệt may về cả tiếp cận vốn, thiết bị, công nghệ sản xuất, kinh nghiệm quản lý tiên tiến, lao động có kỹ năng từ các nước phát triển. Bên cạnh đó, việc Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng hơn vào nền kinh tế khu vực và kinh tế thế giới cũng tạo điều kiện tiếp cận thị trường tốt hơn cho hàng dệt may. Việt Nam hiện đã là thành viên của WTO, đồng thời cũng đã tham gia ký kết và thực thi nhiều hiệp định thương mại tự do quan trọng ở cả cấp độ song phương (như Hiệp định đối tác thương mại Việt - Nhật) và đa phương (như các hiệp định trong khung khổ của ASEAN như ACFTA, AKFTA, ASEAN-Úc-Niu Dilân, v.v). Những cam kết của Việt Nam đối với cải cách và phát triển kinh tế đã tạo được sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư và mở ra những thị trường mới với các quan hệ hợp tác mới. [31]
2.2. RÀO CẢN KỸ THUẬT CỦA CÁC THỊ TRƯỜNG NHẬP KHẨU CHÍNH VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG ĐỐI VỚI HÀNG DỆT MAY XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM.
2.2.1. Rào cản kỹ thuật của các thị trường nhập khẩu chính đối với hàng DMXK của Việt Nam
2.2.1.1. Các rào cản kỹ thuật đối với hàng DMXK sang thị trường Hoa Kỳ
Hoa Kỳ với hơn 313 triệu người tiêu dùng (năm 2012) và mức sống vào hàng cao nhất thế giới là thị trường tiêu dùng hàng hóa lớn nhất thế giới. Thị trường Hoa Kỳ có những yêu cầu rất nghiêm ngặt đối với hàng hóa tiêu dùng và hệ thống
RCKT của Hoa Kỳ cũng vào loại khắt khe nhất thế giới. Đối với hàng DM, có thể kể đến một số RCKT thương mại tiêu biểu của Hoa Kỳ như sau:
(i) Tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm DM. [52],[44],[70]
Điểm đặc biệt trong tiêu chuẩn chất lượng của Hoa Kỳ là ở chỗ nước này không sử dụng tiêu chuẩn quốc tế và phụ thuộc nhiều vào các chứng chỉ bắt buộc.
Mức độ sử dụng các tiêu chuẩn do các tổ chức tiêu chuẩn quốc tế ban hành ở Hoa Kỳ tương đối thấp, thậm chí các tiêu chuẩn này không được biết đến tại Hoa Kỳ dù rằng tất cả các thành viên tham gia Hiệp định TBT đều cam kết sử dụng rộng rãi hơn các tiêu chuẩn quốc tế. Một số tiêu chuẩn của Hoa Kỳ được coi là "tương đương về mặt kỹ thuật" với các tiêu chuẩn quốc tế. Ở Hoa Kỳ, không có thị trường thống nhất toàn liên bang đối với hàng DM do có sự khác biệt về yêu cầu kỹ thuật và tiêu chuẩn sản phẩm giữa liên bang và bang, giữa các khu vực hoặc bang với nhau, hoặc thậm chí giữa các quận và thành phố với nhau. Do vậy, các nhà sản xuất nước ngoài muốn tiêu thụ những sản phẩm này tại các nơi khác nhau ở Hoa Kỳ phải thay đổi các tiêu chuẩn cho phù hợp không những với tiêu chuẩn liên bang, mà còn với các tiêu chuẩn ở các địa phương cụ thể. Sự thay đổi này sẽ phát sinh chi phí sản xuất, điều này gây cản trở không nhỏ đối với các nhà XK nước ngoài.
Hệ thống tiêu chuẩn chất lượng đối với hàng DM của Hoa Kỳ là vô cùng phức tạp do nhiều tổ chức chính phủ và phi chính phủ, các hiệp hội, các tổ chức quốc tế nghiên cứu và phát triển, áp dụng tiêu chuẩn nào là tuỳ thuộc vào từng khách hàng cụ thể. Ví dụ:
- Các tiêu chuẩn về kiểm tra màu sắc nhuộm sản phẩm dệt, công nghệ hoàn tất, làm sạch sản phẩm DM do Hiệp hội các chuyên gia hoá học và màu sản phẩm dệt của Hoa Kỳ (American Association of Textile Chemists and Colorists) và Tổ chức tiêu chuẩn quốc tế (ISO), Hiệp hội các nhà sản xuất hàng dệt Hoa Kỳ (American Textile Manufacturers Institute) quy định.
- Đối với từng loại sản phẩm cụ thể cũng có những tiêu chuẩn chất lượng riêng: các tiêu chuẩn về vải công nghiệp do Hiệp hội vải công nghiệp quốc tế (Industrial Fabrics Association International), Tổ chức tiêu chuẩn quốc tế, Hiệp hội
các nhà sản xuất hàng dệt Hoa Kỳ quy định; các tiêu chuẩn về quần áo ngủ do Hiệp hội sản phẩm quần áo ngủ quốc tế (International Sleep Products Association) quy định; các tiêu chuẩn về vải không dệt do Hiệp hội vải không dệt (Association of Nonwoven Fabrics Industry), Hiệp hội kiểm tra và vật liệu Hoa Kỳ (American Society for Testing and Materials) và Tổ chức tiêu chuẩn quốc tế quy định.
(ii) Tiêu chuẩn về an toàn cho người sử dụng.
Hầu hết hàng DM nhập vào Hoa Kỳ đều phải tuân thủ các quy định của Luật về Sản phẩm dễ cháy (FFA). Luật này có qui định về tính dễ bén lửa đối với hàng DM. Theo quy định mới thì vải sợi, hàng DM nhập khẩu vào Hoa Kỳ phải đáp ứng tiêu chuẩn về vải dễ cháy để tránh trường hợp sản phẩm quá dễ cháy, gây hại cho người tiêu dùng. Các loại vải mỏng, vải xốp thường dễ bắt cháy và cháy rất nhanh. Các loại quần, áo, thảm, đồ ngủ của trẻ em... đều có mức tiêu chuẩn cháy khác nhau. Không ai có thể XK vào Hoa Kỳ hàng may mặc hoặc đồ trang trí nội thất hoặc bất kỳ loại vải hay chất liệu liên quan nào để sử dụng cho các sản phẩm đó, nếu người sản xuất không tuân thủ các tiêu chuẩn về hàng dễ cháy. Có một số sản phẩm được nhập vào Hoa Kỳ rồi gia công lại để giảm tính chất dễ cháy của chúng sao cho đáp ứng được tiêu chuẩn của này, nếu có phải ghi trong hóa đơn hay giấy tờ liên quan khác của lô hàng [58].
Cấm tuyệt đối các sản phẩm có dây thắt ở vùng cổ trên áo, đặc biệt là áo trẻ em. Mặc dù luật đã cấm quần áo có dây thắt nhập khẩu vào Hoa Kỳ từ lâu, nhưng thời gian qua vẫn có nhiều loại quần áo trẻ em có dây thắt được nhập vào Hoa Kỳ. Luật mới nghiêm khắc cấm điều này nên các nhà sản xuất Việt Nam phải chấm dứt sản xuất hàng có dây thắt.
Ngoài ra, Hoa Kỳ cũng có quy định mới về nồng độ chì trong sản phẩm. Từ tháng 2-2009, các sản phẩm dệt sẽ chỉ được nhập khẩu vào Hoa Kỳ nếu đáp ứng tiêu chuẩn về nồng độ chì. Bà Nancy A. Nord, ủy viên cao cấp của Ủy ban An toàn sản phẩm tiêu dùng của Hoa Kỳ, cho biết: “Nồng độ cho phép thấp đến mức có thể nói đơn giản là không có chì”.
Đặc biệt, hàng DMXK vào thị trường Hoa Kỳ phải có báo cáo kiểm tra của
phòng thí nghiệm về việc sản phẩm đáp ứng tiêu chuẩn mới. Chỉ những phòng thí nghiệm đạt chuẩn, được công nhận theo tiêu chuẩn quốc tế mới có chức năng kiểm tra sản phẩm và đưa ra báo cáo kiểm tra có giá trị. Tháng 9/2008, Hoa Kỳ đã công bố trình tự công nhận phòng thí nghiệm đạt tiêu chuẩn. [24]
(iii) Tiêu chuẩn môi trường.
Tại Hoa Kỳ, luật bảo vệ môi trường được thể hiện rất chặt chẽ và thực hiện từ 1/1/2010. Ở cấp độ liên bang đã có rất nhiều đạo luật liên quan đến môi trường được áp dụng, trong đó quan trọng nhất phải kể đến hệ thống quản lý môi trường ISO 14000. Các tiêu chuẩn môi trường yêu cầu hàng DMXK vào Hoa Kỳ phải là các sản phẩm đáp ứng được các tiêu chuẩn sinh thái quy định, an toàn về sức khoẻ đối với người sử dụng và không gây ô nhiễm môi trường trong sản xuất. Các quy định và tiêu chuẩn môi trường gồm các quy định về đóng gói, bao bì; các quy định về ghi nhãn; các quy định và tiêu chuẩn về phương pháp sản xuất, chế biến sản phẩm (PMM). Những năm gần đây đã chứng kiến một sự gia tăng đáng kể trong việc sử dụng các loại nhãn mác môi trường trên sản phẩm hoặc trên bao bì sản phẩm ở Hoa Kỳ để nhấn mạnh đến các thuộc tính và đặc điểm về môi trường của chúng. Hầu hết các nhãn mác này được sử dụng một cách tự nguyện và do nhà sản xuất hoặc người bán lẻ chủ động quyết định, nhằm mục đích tiếp thị khuyếch trương thương hiệu hàng hóa của mình. Tuy nhiên, trong một số trường hợp và theo xu hướng phát triển, các nhãn hiệu đó có thể bị bắt buộc. Những quy định đó nhằm để cảnh báo người tiêu dùng về tính chất độc hại của sản phẩm đối với môi trường. [44],[70]
(iv) Tiêu chuẩn về trách nhiệm xã hội
Bên cạnh các tiêu chuẩn về chất lượng, độ an toàn và môi trường, các vấn đề lao động và trách nhiệm ngày càng có phần quan trọng cao hơn đối với người tiêu dùng Hoa Kỳ. Điều này cũng khiến cho hàng rào kỹ thuật của thị trường Hoa Kỳ càng khó vượt qua hơn. Đối với tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội, Hoa Kỳ áp dụng phổ biến hai tiêu chuẩn, đó là tiêu chuẩn về trách nhiệm xã hội (Social Accountability 8000-SA8000) và chương trình chứng nhận WRAP.
- Tiêu chuẩn về trách nhiệm xã hội SA 8000 không phải là một bộ quy tắc ứng xử duy nhất và các DN buộc phải lựa chọn, do đây vốn là quy tắc mang tính chất tự nguyện, song khi XK sang thị trường Hoa Kỳ, SA 8000 được coi như giấy thông hành cho các DN, đặc biệt là DN sử dụng nhiều lao động. Khi DN đã có chứng chỉ SA 8000, điều đó chứng tỏ được trách nhiệm của DN về măt xã hội và từ đó DN sẽ dễ dàng giành được sự ưu tiên từ phía đối tác và việc XK hàng hóa sẽ thuận lợi hơn. Tiêu chuẩn này được xây dựng dựa trên các nguyên tắc chung về quyền con người. Các yêu cầu của tiêu chuẩn phù hợp với những qui định trong các công ước của Tổ chức lao động thế giới (ILO), Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em và Tuyên bố chung về nhân quyền.
- Tiêu chuẩn trách nhiệm sản xuất toàn cầu (WRAP - Worldwide Responsible Accredited Production): WRAP là một tiêu chuẩn độc lập của sản xuất đúng với nguyên tắc ứng xử, được thực hiện và kiểm soát một cách độc lập và bảo đảm rằng hoạt động của các nhà sản xuất đúng nguyên tắc ứng xử theo một quy tắc gắn kết và bao hàm toàn diện. [81].
(v) Các quy định liên quan tới nhãn hàng DM
Trong nhãn hàng DM của Hoa Kỳ quy định rất chặt chẽ các phần phải có bắt buộc gắn trên hàng hoá. Nhãn hàng DM phải chứa đựng đầy đủ thông tin liên quan đến hàng hóa. Bao gồm:
- Nhãn phải ghi rõ thành phần sợi: Theo luật và các quy định về hàng dệt và hàng len thì sản phẩm có sợi như sợi, vải vóc, quần áo và các mặt hàng gia đình khác phải được ghi nhãn chỉ rõ thành phần sợi. Tên và tỷ trọng của mỗi loại thành phần sợi được ghi lần lượt theo trật tự giảm dần. Ví dụ: 65% cotton, 35% polyester. Nếu sản phẩm làm từ một loại sợi thì ghi “all” (toàn phần) hay ghi 100%. Không cần phải khai báo thành phần của fec-me-tuya, cúc, các loại hạt, các miếng đáp bằng hình vẽ, hoặc bất kỳ một bộ phận nào không được làm từ sợi, chỉ hay vải. Nói chung chỉ cần nêu tên các loại sợi chiếm từ 5% trọng lượng sợi trở lên. Sợi chiếm dưới 5% cần được ghi nhãn là “sợi khác” hoặc “các loại sợi khác” (nếu sợi đó chiếm dưới 5% nhưng có tầm quan trọng đáng kể về chức năng ở mức tỷ trọng ấy thì có thể ghi cụ thể).
Việc xác định chính xác thành phần sợi để ghi vào nhãn hàng DM đối với các DN Việt Nam không đơn giản. Bên cạnh đó chất lượng của hàng hoá (thành phần sợi) trong cả lô hàng thường không nhất quán, mặc dù đã cho phép sai số 3% nhưng nhiều lô hàng vẫn không thể đảm bảo được và bị trả lại. Ghi nhãn chính xác là một việc làm không thể bỏ qua đối với hàng DM muốn vào thị trường Hoa Kỳ, đây đang là RCKT mà các DN Việt Nam phải vượt qua.
- Nhãn phải ghi hướng dẫn sử dụng: Trên các nhãn hiệu sản phẩm phải ghi hướng dẫn bảo quản sử dụng sản phẩm đáp ứng được các yêu cầu sau: người tiêu dùng phải thực hiện được, dễ đọc trong suốt thời gian sử dụng quần áo, được in trên thẻ treo hoặc ở mặt ngoài của bao bì nếu nhãn hiệu không thể nhìn thấy, đính kèm với sản phẩm trước khi hàng hoá được bán ở Hoa Kỳ, có dịch sang tiếng Anh nếu sử dụng các ký hiệu quốc tế. Hướng dẫn bảo quản phải bao gồm các mục như giặt, tẩy, sấy, là, cảnh báo đặc biệt như phải giặt riêng, dung môi có thể làm hỏng hàng hoá, dung môi an toàn để giặt quần áo. Ký hiệu bảo quản không bắt buộc, nhưng những ký hiệu được sử dụng phải được Hiệp hội Hoa Kỳ về kiểm tra và nguyên liệu (ASTM) đưa ra. Hiện nay, Hoa Kỳ và đại diện tổ chức tiêu chuẩn quốc tế đang hợp tác để hài hoà các ký hiệu hướng dẫn bảo quản vào hệ thống quốc tế.
- Nhãn phải ghi công ty sản xuất, nước xuất xứ: ghi xuất xứ hàng hoá có vai trò quan trọng trong việc xác định mức thuế áp dụng co hàng DM. Bên cạnh đó, việc ghi xuất xứ trên nhãn hàng DM còn giúp cho người tiêu dùng và các nhà kinh doanh tại Hoa Kỳ xác định được đó là sản phẩm nước nào để lựa chọn.
Trong Luật về hàng dệt và hàng len quy định xuất xứ phải luôn luôn được ghi trên mặt trước của nhãn hàng. Thành phần sợi và danh tính nhà sản xuất hoặc nhà kinh doanh có thể xuất hiện trên mặt sau của nhãn hàng.
(vi) Quy định về xuất xứ hàng DM
Hoa Kỳ đặc biệt quan tâm tới quy định về xuất xứ hàng DM vì những quy định này liên quan tới việc thực hiện các ưu đãi về thuế.
Cơ quan Hải quan và Bảo vệ biên giới Hoa Kỳ (CBP - Customs and Border Protection) áp dụng quy tắc xuất xứ hàng hóa thuộc diện không được hưởng ưu đãi như mô hình sau:
Quy tắc XX không ưu đãi
Toàn bộ quá trình SX, chế tạo sản phẩm của một nước cụ thể
Tiêu chuẩn “đáp ứng toàn bộ”
Phương pháp
dỡ bỏ thuế quan
Xem xét từng trường hợp dựa trên sự thay đổi về tên, đặc tính,
hoặc phương pháp sử dụng
Tiêu chuẩn “chế biến lớn”
Sản phẩm
DM
Tất cả các sản
phẩm khác
Hình 2.2. Áp dụng quy tắc xuất xứ không ưu đãi của Hải quan Hoa Kỳ
Nguồn: WTO, US Trade Policy Review 12/2012
Đối với hàng hóa được ưu đãi thuế: Do việc Hoa Kỳ không ngừng tăng số lượng các FTA với các nước đã dẫn đến sự phát triển của bộ quy tắc xuất xứ ưu đãi áp dụng cho hàng hóa của các nước có FTAs với Hoa Kỳ. Mỗi FTA đều có QTXX riêng tùy vào năng lực đàm phán của các bên. QTXX ưu đãi được sử dụng cho các chương trình ưu đãi thương mại không có đi có lại chủ yếu dựa trên tiêu chuẩn “đáp ứng toàn bộ” - "wholly obtained" criteria, hoặc theo tiêu chuẩn “chế biến lớn” - “substantial transformation” criteria, được xác định bằng cách sử dụng yêu cầu hàm lượng giá trị nội địa tối thiểu trong tổng giá trị được định giá. Trái lại, các bộ quy tắc xuất xứ trong các FTA của Mỹ được hình thành dựa trên QTXX của Hiệp định NAFTA lại chủ yếu sử dụng các quy tắc sản phẩm cụ thể, chủ yếu dựa trên phương pháp luận dỡ bỏ thuế quan và/hoặc tiêu chuẩn hàm lượng khu vực. Quy tắc sản phẩm cụ thể dựa trên mã số phân loại HS và có thể được mở rộng đến chương, mục và tiểu mục HS. Các FTA mà Mỹ tham gia như NAFTA, CAFTA-DR, FTA với Úc,