Quyền an tử và hợp pháp hóa quyền an tử tại Việt Nam - 8

(i) số lượng bệnh nhân giai đoạn cuối, mắc bệnh vô phương cứu chữa xin được chết lớn; giới bác sỹ tồn tại nhiều bức xúc về vấn đề này;

(ii) quốc gia có hệ thống pháp luật chặt chẽ, đồng bộ, nghiêm minh; kỹ thuật lập pháp của quốc gia đó đủ để có thể xây dựng luật ít bị lạm dụng nhất;

(iii) người dân quốc gia đó có ý thức tuân thủ pháp luật cao;

(iv) tại thời điểm muốn ban hành luật về an tử không có quá nhiều người của quốc gia đó phản đối (thông qua thăm dò dư luận);

(v) quyền an tử cần được ghi nhận trong các đạo luật gốc với tư cách là quyền nhân thân, từ đó làm cơ sở cho việc xây dựng luật chuyên ngành (luật về an tử).

Đối chiếu với các điều kiện trên, Việt Nam có lẽ chỉ thỏa mãn điều kiện thứ nhất về nhu cầu xã hội, tuy nhiên hiện vẫn chưa có những điều tra và số liệu thống kê cụ thể. Các điều kiện còn lại Việt Nam hầu như chưa đáp ứng được. Nói cách khác, để luật hóa quyền an tử ở Việt Nam, cần có thêm những nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề.

3.2. Các yêu cầu về hợp pháp hóa quyền an tử của Việt Nam hiện nay

Việc khai sinh, khai tử của con người đều gắn chặt chẽ với quyền nhân thân – đối tượng điều chỉnh của Bộ luật Dân sự Việt Nam. Việc đề xuất đưa chế định “An tử” vào Bộ luật Dân sự để điều chỉnh quan hệ này, là đúng đắn và cần thiết trong một xã hội phát triển và văn minh.

Về văn hóa, Việt Nam là một đất nước truyền thống, quan niệm phương Đông coi trọng sự sống con người, xem nó là thứ quý giá nhất đã ăn sâu vào ý thức hệ của nhiều thế hệ người Việt Nam. Thực tế cho thấy ở Việt Nam, gia đình người bệnh vẫn quan niệm “còn nước còn tát” hay “có bệnh vái tứ phương” dù đã có kết luận về tình trạng không thể chữa trị hay người bệnh đang phải sống trong hoàn cảnh đau đớn kéo dài. An tử với mục đích nhân đạo vì vậy chấp nhận an tử không có nghĩa là không tôn trọng sự sống. Việc thay đổi quan niệm truyền thống, nhất là khi liên quan đến sự sống và cái chết

thì cần có thời gian, chúng ta cần đặt cơ sở dần chấp nhận an tử. Vì vậy, với quyền an tử, một quyền nhân thân cần thiết và hoàn toàn mang mục đích nhân đạo, điều cần thiết là cần nâng cao nhận thức về bản chất vấn đề, quan niệm truyền thống tiếp cận, thích nghi dần với quyền an tử để có thể được công nhận ở Việt Nam.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 73 trang tài liệu này.

Về kinh tế, Việt Nam còn là một nước đang phát triển, những điều kiện về cơ sở vật chất và dịch vụ chăm sóc, khám chữa bệnh y tế còn thấp. Trình độ y học thấp dẫn đến việc chuẩn đoán sai người, sai bệnh. Khoa học kỹ thuật về y tế sẽ không cung cấp cho người bệnh được những lựa chọn chăm sóc giảm nhẹ đau đớn. Hoàn cảnh này rất dễ dẫn đến hệ quả quyền an tử bị lạm dụng, làm sai lệch bản chất và mục đích nhân đạo của quyền, không chỉ dừng lại ở những bệnh nhân bị bệnh nan y mà đối tượng lại là: người già neo đơn, người bị bệnh thần kinh…

Về xã hội, số lượng bệnh nhân có nguyện vọng hưởng thụ quyền tại Việt Nam chưa nhiều. Không phải do Việt Nam là đất nước ít bệnh tật, không phải Việt Nam là đất nước với trình độ y học phát triển để có thể chữa trị được hầu hết các bệnh mà bởi ở Việt Nam, vấn đề còn khá mới mẻ, nếu chưa từng nghe, chưa từng biết đến thì sẽ không phát sinh nhu cầu thụ hưởng.

Quyền an tử và hợp pháp hóa quyền an tử tại Việt Nam - 8

Về mặt pháp luật, kỹ thuật lập pháp của Việt Nam còn thấp, nhiều văn bản ra đời nếu không chồng chéo, mâu thuẫn, vi hiến về nội dung, sai phạm về hình thức thì ban hành cũng không đúng thủ tục. Một trong những yêu cầu ban hành Luật an tử là hệ thống pháp luật của nước đó phải nghiêm minh, chặt chẽ và đồng bộ. Bên cạnh đó cần học hỏi kinh nghiệm các nước trong việc xây dựng và áp dụng Luật an tử. Đây là hạn chế lớn khi xem xét đến hợp pháp hóa quyền an tử bởi tính chất nhạy cảm, dễ lạm dụng và hậu quả nặng nề nếu việc quy định không chặt chẽ, rõ ràng.

Ngoài ra, yếu tố tự giác tuân thủ pháp luật của người dân cũng là yêu cầu cấp bách. Thực tế cho thấy, tư duy, ý thức tuân thủ pháp luật của người dân chưa

cao. Nhiều người thậm chí không bao giờ đọc một văn bản pháp lý. Có những người rất hiểu biết pháp luật thì lại dùng kiến thức của mình để lách luật.

Như vậy, điều quan trọng là cần phải nâng cao nhận thức, tư duy của người dân về vấn đề này, đồng thời chuẩn bị điều kiện để xây dựng Luật an tử.

3.3. Các giải pháp liên quan đến quyền an tử ở Việt Nam

Để có thể xây dựng được Luật An tử ở Việt Nam, trước tiên cần có những biện pháp để nâng cao nhận thức của người dân, giúp họ hiểu rõ về bản chất quyền an tử và dần dần chấp nhận nó đồng thời chuẩn bị những điều kiện cần thiết để có thể xây dựng Luật An tử. Cụ thể:

3.3.1. Nhóm giải pháp nâng cao nhận thức về Quyền an tử

- Phổ biến, tuyên truyền kiến thức về Quyền an tử thông qua sách, báo, phương tiện truyền thông.

Ở nước ta hiện nay, so với các nước trên thế giới thì nhu cầu an tử ở nước ta không cao. Việc nhận thức về nhóm quyền này trong đại bộ phận nhân dân còn hết sức hạn chế. Đại đa số những người có biết về an tử thì lại cho đó là hành vi giết người, trái với đạo đức xã hội… Vì thế, việc giúp nhân dân hiểu rõ bản chất của quyền an tử là việc cần thiết.

Một số kênh có thể áp dụng để tuyên truyền, giáo dục về quyền an tử như:

+ Đăng trên các báo, tạp chí về vần đề quyền an tử. Chúng ta nên phân tích thực tiễn của Quyền an tử hiện nay trên thế giới và ở Việt Nam; phân tích mục đích tốt đẹp của quyền này để từ đó dần dần thay đổi nhận thức của người dân.

+ Thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng: ngày nay, công nghệ thông tin ngày càng phát triển, sức mạnh của phương tiện truyền thông trong việc phản ánh các vấn đề xã hội ngày càng mạnh mẽ. Vì thế, việc đăng trên các phương tiện truyền thông là kênh hữu ích nhất để người dân có thể tiếp thu vấn đề này.

+ Tổ chức các buổi tuyên truyền, trao đổi về Quyền an tử tại các địa phương, các khu dân cư, tổ dân phố… hay phát trên đài phát thanh của các địa phương.

Nội dung tuyên truyền cần đảm bảo: phân tích được bản chất, mục đích nhân đạo của quyền an tử; nêu những quan điểm ủng hộ, chỉ ra những ý kiến phản đối từ đó phân tích cái đúng cái sai của mỗi ý kiến để người dân nhận thức đúng bản chất vấn đề; đồng thời phổ biến kiến thức về thực hiện quyền an tử (đặc biệt là điều kiện, yêu cầu để có được quyền này).

- Tổ chức các cuộc thăm dò, lấy ý kiến người dân.

Thăm dò ý kiến dư luận đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng Luật an tử. Bởi lẽ, kết quả thăm dò không chỉ phản ánh nhu cầu, quan điểm của người dân mà còn góp phần phổ biến kiến thức đến đại bộ phận nhân dân. Việc này không những giúp người dân biết về an tử, tiếp cận nó đồng thời biết được quan điểm, ý kiến người dân về vấn đề này. Các ý kiến trong kết quả thăm dò sẽ là cơ sở trong quá trình xây dựng Luật An tử. Như vậy, nếu được ban hành, Luật An tử sẽ phù hợp với nguyện vọng của người dân, dễ đi vào cuộc sống.

- Thống kê tình hình số lượng bệnh nhân đang mắc bệnh giai đoạn cuối, xin được chết.

Việc thống kê số lượng người có nguyện vọng hưởng thụ quyền an tử nên quy định thuộc thẩm quyền của hai cơ quan: Cơ quan y tế (Bộ y tế) và Cơ quan hành chính địa phương quản lý vấn đề khai sinh - khai tử (UBND cấp xã nơi người có nguyện vọng cư trú). Việc công bố công khai, minh bạch những số liệu thống kê này sẽ giúp cho cộng đồng hiểu rõ không phải chỉ có một vài người mong muốn quyền an tử, từ đó thấy được nhu cầu thực tiễn, tính cấp thiết của việc xây dựng Luật an tử.

3.3.2. Nhóm giải pháp về hoàn thiện quy chế pháp lý về Quyền an tử

- Học hỏi kinh nghiệm của các nước đã hợp pháp hóa an tử để xây dựng Luật an tử phù hợp với Việt Nam.

Có thể thấy, hiện nay trên thế giới có khá nhiều quốc gia đã hợp pháp hóa an tử. Việt Nam có thể học hỏi, tiếp thu những điều phù hợp với hoàn

cảnh đất nước để xây dựng Luật An tử ở Việt Nam. Một số cách thức để hiện thực hóa điều này như: mời các chuyên gia nước ngoài về lĩnh vực an tử trợ giúp, tạo điều kiện cho một số cán bộ đi học tập, nghiên cứu ở nước ngoài để từ đó rút ra kinh nghiệm cho Việt Nam. Ngoài ra, Nhà nước Việt Nam cũng cần hợp tác với Nhà nước các Quốc gia để có trao đổi về tư duy lập pháp, thực tiễn cũng như những vấn đề bất cập khi thi hành quyền an tử để có chính sách phù hợp với đất nước.

- Sửa đổi bổ sung các quy định pháp luật có liên quan trong hệ thống pháp luật hiện hành cho phù hợp với Luật An tử khi được ban hành, đặc biệt là Bộ luật dân sự và Bộ luật Hình sự.

Đây là việc hết sức quan trọng đối với Việt Nam. Luật An tử nếu được ban hành sẽ dẫn đến không đồng bộ, thiếu tính thống nhất với các văn bản đã ban hành trước đó. Những mâu thuẫn này sẽ tạo nên những rắc rối về mặt pháp lý không chỉ đối với người dân mà ngay cả đối với cán bộ, công chức nhà nước cũng không biết là phải dựa vào quy định nào của pháp luật để thực thi công vụ trong các trường hợp quy định của pháp luật có sự mâu thuẫn, chồng chéo và trùng lắp.

Thiết nghĩ có nên áp dụng kỹ thuật một văn bản sửa nhiều văn bản trong trường hợp này hay không? Việc dùng một văn bản để sửa nhiều văn bản là một quy định tiến bộ, theo đó có thể tiến hành việc sửa đổi nhiều văn bản ngay trong một văn bản thay vì phải sửa đổi lần lượt từng văn bản. Chính vì vậy, với việc áp dụng kỹ thuật một văn bản sửa nhiều văn bản cho phép một cơ quan khi sửa đổi một quy định của pháp luật sẽ đồng thời sửa ngay những quy định có liên quan trong các văn bản quy phạm pháp luật khác do mình ban hành để bảo đảm sự thống nhất giữa các quy định mới với với hệ thống pháp luật, tránh xảy ra các trường hợp mâu thuẫn, chồng chéo, trùng lắp với các quy định cũ trong hệ thống pháp luật. Chỉ trong trường hợp không thể sửa ngay được các văn bản khác vì lý do khách quan, việc sửa đổi phức tạp thì phải xác định rõ danh mục văn bản, điều, khoản, điểm của văn bản quy

phạm pháp luật do mình đã ban hành trái với quy định của văn bản quy phạm pháp luật mới và có trách nhiệm sửa đổi, bổ sung trước khi văn bản quy phạm pháp luật mới có hiệu lực để bảo đảm pháp luật được thống nhất của hệ thống pháp luật.

Việc áp dụng phương thức một văn bản sửa đổi nhiều văn bản chỉ phát huy được tối đa tác dụng bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật trong điều kiện chúng ta tiến hành pháp điển hoá hệ thống quy phạm pháp luật. Khi đó mọi quy định sau khi được sửa đổi và có hiệu lực sẽ được cập nhật ngay vào các bộ pháp điển và do đó trong các lần sửa đổi sau chỉ cần rà soát trên bộ pháp điển hoá.

3.3.3. Đề xuất mô hình khi luật hóa quyền an tử

Khi luật hóa Quyền An tử, sẽ phải có một hành lang pháp lý chặt chẽ để tránh sự lạm dụng. Việc hợp pháp hóa an tử cho phép bác sỹ và bệnh nhân thực hiện hành vi này mà không phải chịu trách nhiệm pháp lý hoặc nghề nghiệp nào, nếu tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Trên cơ sở tham khảo quy định của pháp luật một số quốc gia cũng như phân tích thực trạng quyền an tử hiện nay, có thể xây dựng mô hình của Luật an tử như sau:

Về các khái niệm

Đây là phần không thể thiếu trong bất kỳ luật nào, đặc biệt đối với Luật An tử. Một số khái niệm Luật An tử cần giải thích như: Cái chết êm ả (an tử), người đã thành niên, bệnh nhân, bệnh nan y, vô phương cứu chữa; tình trạng giai đoạn cuối của bệnh, các biện pháp kéo dài sự sống, bác sỹ điều trị, hội đồng bác sỹ, chúc thư y tế, người giám hộ, người đại diện…

+ Quyền an tử: trước hết cần giải thích thế nào là quyền an tử ở góc độ bản chất của vấn đề.

+ Bệnh nan y: cần định nghĩa dựa trên đặc điểm bản chất, bệnh nan y có thể được định nghĩa là bệnh không thể chữa trị và không thể phục hồi đã được xác nhận y tế, sẽ dẫn tới cái chết không thể tránh khỏi cho người bệnh.

+ Tình trạng sống vô thức:

Từ ngàn xưa, chết là hậu quả của tim ngừng đập, phổi ngưng thở. Xác định đó đầy đủ và chính xác nhất, dầu định nghĩa của chữ chết có thể không đơn giản như vậy, vì tính thực nghiệm không thể tồn tại nếu không có những liên đới và hổ trợ của các ngành khoa học tâm linh. Nhưng từ những năm 60 của thế kỷ 20, những tiến bộ y học, với phát minh các máy trợ sinh (life- support technology), và các nguyên tắc cấp cứu được hệ thống hóa và phổ biến, các bác sĩ đã có thể giữ cho tim vẫn đập, phổi vẫn làm việc để đưa dưỡng khí đến nuôi dưỡng của các mô, bào, thì cái định nghĩa rất rõ ràng và đầy đủ này đã được xét lại vì không còn hoàn toàn đúng để có thể áp dụng cho mọi trường hợp tử vong. Vì tim đập, phổi làm việc không làm con người tỉnh lại, và có ý thức. Do vậy, từ đầu thập niên 80, sự sống được định nghĩa bằng hai yếu tố: tim, phổi còn làm việc, và não bộ còn sống. Và định nghĩa về cái chết được xác định lại như sự ngừng đập của tim, phổi ngừng thở hay não bộ ngưng hoạt động (loss of all independent lung and heart functions, or irreversible cessation of all functions of the entire brain). Sở dĩ có sự phân biệt rõ ràng như vậy vì có nhiều trường hợp não bộ đã chết, nhưng tim, phổi vẫn làm việc, hoặc nhờ máy trợ sinh, hoặc do sự hoạt động dai dẵng của hệ thần kinh tự trị. Như vậy, sống là mọi hoạt động của cơ thể nhằm giữ cho con người có ý thức, và chết chỉ là một sự chuyển thái sinh lý tâm thức từ cỏi ý thức qua vô thức. Tình trạng sống vô thức được xem là tình trạng sống như thực vật hay tình trạng thực sinh từ danh từ y học permanent vegetative state.

Về điều kiện của chủ thể có Quyền được chết

Để thực hiện đúng bản chất của Quyền an tử, nhà làm luật nên quy định chủ thể thực hiện quyền được chết phải thỏa mãn các điều kiện như:

- Là người đã thành niên (từ đủ 18 tuổi trở lên)

Như ở Hà Lan, có quy định an tử đối với trẻ em: bệnh nhân từ đủ 12 tuổi đến dưới 16 tuổi cần có ý kiến của gia đình, từ đủ 16 tuổi trở lên thì ý kiến gia đình là không cần thiết. Theo ý kiến chủ quan của tác giả, không nên quy định an tử cho trẻ em bởi đây là độ tuổi dễ bị lạm dụng vào mục đích xấu.

Với các nước phương Đông như Việt Nam, hủ tục trọng nam khinh nữ vẫn còn rõ rệt hay vì những mục đích xấu như tranh giành tài sản… có thể làm cho Luật bị lạm dụng.

- Đang phải chịu nhiều đau đớn về thể chất hoặc tinh thần hay đang sống trong trạng thái thực vật kéo dài, dai dẳng sau một tai nạn hoặc mắc bệnh nan y, vô phương cứu chữa.

- Tự nguyện đưa ra yêu cầu xin được chết, không chịu áp lực từ bên nào, yêu cầu này phải được lặp đi lặp lại nhiều lần

- Yêu cầu được chết của bệnh nhân phải có người làm chứng, phải là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, không phải là bác sỹ điều trị cũng như người thân hay người có liên quan tới tài sản của bệnh nhân.

- Có chúc thư y tế, nếu bệnh nhân lúc lập chúc thư chưa bước vào giai đoạn cuối của bệnh tật.

- Không có vấn đề về tâm thần khi đưa ra quyết định xin được chết (lúc xin chết tại thời điểm ở giai đoạn cuối của bệnh tật) hay lập chúc thư y tế (khi chưa bước vào giai đoạn cuối của bệnh tật).

Bệnh nhân có quyền thay đổi quyết định bất cứ lúc nào. Như vậy, chúng ta đã loại trừ các dạng bệnh nhân khác như người mặc bệnh tâm thần, người thiểu năng trí tuệ, người già neo đơn bị bệnh tật…mà chỉ cho phép các bệnh nhân thỏa mãn các điều kiện trên có quyền xin được chết.

Những quy định đối với bác sỹ

Có thể xác định những yêu cầu đối với bác sỹ khi thực hiện an tử như:

- Đã xác nhận được rằng quyết định của bệnh nhân là tự nguyện và đã được xem xét cẩn trọng

- Đã có kết luận cuối cùng là bệnh nhân không còn sự lựa chọn hợp lý nào khác, sự đau khổ của bệnh nhân là không giảm đi, không tránh được cái chết.

- Phải hỏi ý kiến của 01 bác sỹ khác trước khi tiến hành an tử cho bệnh nhân

- Phải thực hiện thủ tục theo một trình tự nghiêm ngặt.

Xem tất cả 73 trang.

Ngày đăng: 07/07/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí