Quy Định Pháp Luật Về Quyền An Tử Của Một Số Quốc Gia

việc hưởng thụ quyền. Như vậy, quyền an tử sẽ đi ngược lại với quyền sống trong trường hợp này. Sự phân định đúng hay sai, hợp lý hay không hợp lý về tính “tùy nghi” và tính “bắt buộc” của quyền sống là không dễ dàng, vì vậy cuộc tranh cãi về tính chất của quyền sống vẫn chưa có hồi kết. Tuy nhiên, quyền sống với ý nghĩa là quyền tự nhiên và tối cao của con người thì không nên coi việc hưởng thụ quyền là một nghĩa vụ, tức là quyền sống nên được coi là quyền tùy nghi, việc tự quyết định, lựa chọn sống hay không tiếp tục sống đều là hưởng thụ quyền. Và với cách hiểu này, quyền sống và quyền an tử không hề mâu thuẫn nhau.

Quyền thứ hai cần được xem xét trong mối quan hệ với quyền an tử là quyền không bị tra tấn và đối xử nhân đạo(freedom from torture). Được ghi nhận lần đầu tiên tại Điều 5 Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền (UDHR), được tái khẳng định tại Điều 7 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR), theo đó:

“Không ai có thể bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt một cách tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm. Đặc biệt, không ai có thể bị sử dụng để làm thí nghiệm y học hoặc khoa học mà không có sự đồng ý tự nguyện của người đó”.

Theo Luật nhân quyền quốc tế, một trong những yếu tố để xác định tra tấn và những hành vi đối xử tồi tệ khác đó là những “đau đớn hoặc đau khổ nghiêm trọng về thể xác hay tinh thần”. Trong an tử, có ít nhất hai đối tượng có liên quan đó là bác sĩ (người chấp nhận và thực hiện an tử) và bệnh nhân (người đưa ra yêu cầu và được an tử); hai câu hỏi đặt ra trong mối quan hệ với quyền không bị tra tấn đó là : (i) liệu việc duy trì sự sống của những bệnh nhân không có khả năng cứu chữa và phải chịu những nỗi đau cùng cực có là một sự đối xử tồi tệ với họ không? (ii) liệu các bác sĩ có thể bị coi là làm trái với đạo đức ngành y và sẽ phải chịu những ảnh hưởng tâm lý bởi chính họ đã trực tiếp hoặc gián tiếp lấy đi mạng sống của người khác hay không?

Câu trả lời cho câu hỏi thứ nhất sẽ còn tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể (ví dụ: bệnh nhân chết não hoặc sống thực vật thì khó có thể cho rằng họ đang chịu những đau đớn cùng cực). Tuy nhiên, một trong những tranh luận ủng hộ an tử đó là để giải phóng nỗi đau cùng cực của bệnh nhânvề thể chất hoặc tinh thần và không thể chịu đưng được, thì an tử lại là một cách đối xử nhân đạo hơn với bệnh nhân. Còn ở câu hỏi thứ hai, câu trả lời có thể rõ ràng hơn là không, bởi bác sĩ với năng lực chuyên môn của mình sẽ chẩn đoán chính xác tình hình hiện tại của bệnh nhân là không thể cứu chữa nữa, nhiều đau đớn kéo dài, sẽ biết điều gì là tốt hơn với bệnh nhân và bác sĩ cũng có quyền từ chối thực hiện yêu cầu an tử của bệnh nhân nếu không muốn (vì trái đạo đức y học: nguyên tắc chỉ cứu người chứ không tước bỏ tính mạng con người của bác sĩ). Từ những phân tích trên cho thấy, an tử góp phần bảo đảm hơn là vi phạm quyền không bị tra tấn.

Sự hình thành quyền an tử và phân loại quyền an tửđều dựa trên sự tự do ý chí của con người. Việc không tôn trọng quyền tự quyết của con người, kể cả trong trường hợp quyết định về chấm dứt cuộc sống cũng có thể coi là hành vi hạ thấp nhân phẩm. Hơn nữa, việc kéo dài sự sống của người bệnh không còn khả năng cứu chữa, đang phải chịu đau đớn kéo dài, trong nhiều trường hợp là tra tấn, vô nhân đạo với họ. Như vậy quyền không bị tra tấn và đối xử nhân đạo không những không mâu thuẫn với quyền an tử mà còn là căn cứ để hợp pháp hóa quyền an tử trong thực tế.

Quyền thứ hai có mối liên hệ với quyền an tử đó là quyền riêng tư quy định tại Điều 17 ICCPR:

“Không ai bị can thiệp một cách tùy tiện hoặc bất hợp pháp vào đời sống riêng tư, gia đình, nhà ở, thư tín, hoặc bị xâm phạm bất hợp pháp đến danh dự và uy tín”.

“Mọi người đều có quyền được pháp luật bảo vệ chống lại những can thiệp hoặc xâm phạm như vậy”

Xét về mặt xã hội và tâm lý thì đời sống riêng tư của một cá nhân là sự lựa chọn có thể có sai lầm và hợp với thói quen, sự trải nghiệm, rèn luyện và

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 73 trang tài liệu này.

nhận thức về cuộc sống hiện thực của cá nhân như một chức năng, như một ước vọng hay một nhu cầu đơn thuần về tinh thần của cá nhân. Sự tự mình, cho mình và chỉ riêng mình với mục đích và quan niệm sống của cá nhân tồn tại khách quan trong xã hội hiện đại và được tôn trọng, bảo vệ bằng pháp luật. Xét về mặt quan hệ pháp lý, quyền về đời sống riêng tư của cá nhân là quyền do luật định. Việc thực hiện quyền này và mức độ thực hiện đến đâu là do chính cá nhân định đoạt bằng hành vi của mình, vì mình, cho riêng mình và tự do hưởng dụng những lợi ích nào đó cho riêng mình, chỉ là của mình và

không ai được xâm phạm.

Như vậy, quyền riêng tư khẳng định rằng: khả năng quyết định chấm dứt cuộc sống của người bệnh, nghĩa vụ tôn trọng quyết định này của các chủ thể khác. Bất kì sự cấm đoán nào cũng có thể được coi là sự can thiệp hoặc xâm phạm.

Ủy ban Nhân quyền (HRC – cơ quan giám sát thực thi Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị – ICCPR) cũng chỉ mới đề cập đến quyền này một lần trong Nhận xét kết luận về báo cáo của Hà Lan năm 2001 - thời điểm quốc gia này thông qua đạo luật về an tử. Trong Nhận xét này, HRC cho rằng an tử tự nguyện chỉ nên được phép trong những tình huống hãn hữu nhất mà mọi điều kiện về thủ tục và nội dung được đảm bảo, trong đó bao gồm cần phải thể hiện được ý chí rõ ràng của bệnh nhân. Tuy nhiên, HRC không đồng tình với các quy định về việc chấp thuận chấm dứt cuộc sống của trẻ em, bởi cho rằng trẻ em chưa đủ trưởng thành để bày tỏ ý chí về một vấn đề quan trọng như vậy với cuộc sống của mình.

Cần phân biệt an tử với việc tước đi tính mạng của cá nhân mà không vi phạm LNQQT. Nhìn chung, theo pháp luật quốc tế và pháp luật của các quốc gia, có 3 trường hợp mà tính mạng của cá nhân có thể bị tước đi “hợp pháp”, đó là: (i) hình phạt tử hình; (ii) trong xung đột vũ trang; (iii) phòng vệ chính đáng. Trong các trường hợp này, mục đích của việc tước đi mạng sống của nạn nhân được coi là “cần thiết” để bảo vệ cá nhân khác, cộng đồng và xã hội; và thuật ngữ “bị tước” cho thấy nó không phụ thuộc vào ý chí của

nạn nhân. Do đó, quyền an tử (thể hiện ý chí của bệnh nhân, vì mục đích nhân đạo đối với bệnh nhân) hoàn toàn khác biệt với khía cạnh “không ai có thể bị tước mạng sống một cách tùy tiện” của quyền sống [5].

Như vậy, nhìn chung an tử không đi ngược lại với LNQQT, tuy nhiên, để quyền an tử được thừa nhận một cách rộng rãi ở các quốc gia là điều tương đối khó. Hiện nay, những tranh luận về an tử có xu hướng diễn ra chủ yếu ở khu vực Bắc Mỹ, châu Âu và Úc hơn là ở châu Á, châu Phi, Nam Mỹ, và Trung Đông, mặc dù vẫn có những ngoại lệ trong xu hướng này. Ở châu Âu, nơi mà luôn đi đầu trong lĩnh vực nhân quyền, trong Khuyến nghị số 1418 của Nghị viện Hội đồng châu Âu năm 1999 nêu rõ Ủy ban Bộ trưởng khuyến khích các nước thành viên của Hội đồng Châu Âu tôn trọng và bảo vệ nhân phẩm của những người bệnh nan y hoặc sắp chết theo mọi khía cạnh:

Bằng việc công nhận và bảo vệ quyền của những người bệnh nan y hoặc sắp chết đối với việc chăm sóc giảm nhẹ toàn diện, đồng thời vẫn thực hiện các biện pháp cần thiết

Bảo đảm rằng, trừ khi người bệnh lựa chọn cách khác, một người bị bệnh nan y hoặc sắp chết sẽ được nhận đầy đủ các biện pháp chăm sóc để làm giảm sự đau đớn, ngay cả khi các biện pháp này có thể gây ra tác dụng phụ làm rút ngắn cuộc sống của họ.

Nội dung khuyến nghị này cho thấy ý chí của bệnh nhân là rất quan trọng, và nó cũng hàm ý rằng việc hỗ trợ bệnh nhân ngừng sử dụng các thiết bị điều trị duy trì sự sống nếu bệnh nhân có mong muốn là không vi phạm pháp luật.

2.2. Quy định pháp luật về quyền an tử của một số quốc gia

2.2.1. Các quốc gia đã hợp pháp hóa quyền an tử


Hình 2 1 Bản đồ các quốc gia vùng lãnh thổ đã hợp pháp hóa an tử và trợ 1

Hình 2.1. Bản đồ các quốc gia/vùng lãnh thổ đã hợp pháp hóa an tử và trợ tử tính đến 2014 [23]

Hà Lan:

Thượng viện Hà Lan thông qua đạo luật Luật yêu cầu chấm dứt sự sống và Trợ tử ngày 10/4/2001 và chính thức có hiệu lực ngày 01/04/2002. Trước đó, Hạ viện bỏ phiếu thông qua vào tháng 11/2000 với 104 phiếu ủng hộ và 40 phiếu chống. Trong năm 2000, tại Hà Lan, có 2.113 ca "chết êm ả" được chính thức ghi nhận, trong đó 1.893 ca liên quan tới bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối [14]. Ở Hà Lan, Luật “cái chết êm ả” đã được chấp thuận sau một cuộc tranh cãi kéo dài nhiều năm. Trên thực tế, luật chỉ quy tắc hóa một hành vi đã được chấp thuận từ năm 1997 với một số điều kiện nhất định, trong đó quan trọng hơn cả là bệnh nhân phải chịu đựng đau đớn tột cùng và bệnh của họ là vô phương cứu chữa.

Theo quy định của luật, bác sĩ có thể thực hiện "cái chết êm ả" mà không bị truy tố nếu tuân thủ một số "quy định tối thiểu" sau:

(1) Bệnh nhân phải là người mắc những bệnh vô phương cứu chữa, không thể chịu đựng nổi.

(2) Bác sĩ phải tham khảo ý kiến của một đồng nghiệp độc lập trước khi thực hiện động thái này.

(3) Hồ sơ sau đó được chuyển tới hội đồng gồm một luật sư, một bác sĩ và một chuyên gia đạo đức học. Hội đồng có nhiệm vụ kiểm tra việc tuân thủ các quy định tối thiểu.

(4) Nếu những quy định này không được tuân thủ, hồ sơ được chuyển tới tòa án và bác sĩ sẽ bị truy tố.

Tiếp theo đó, trong năm 2006, Hà Lan còn cho phép an tử đổi với trẻ em mắc bệnh nặng không thể cứu chữa. Bệnh nhân từ 12 đến 16 tuổi cũng có quyền được "chết êm ả" nếu có sự đồng ý của cha mẹ. Đối với trẻ trên 16 tuổi, không cần phải có ý kiến của gia đình, có thể yêu cầu và được an tử hoặc trợ tử

Có thể thấy, Đạo luật này hợp pháp hóa an tử và trợ tử trong những trường hợp và hoàn cảnh rất đặc biệt và phải thỏa mãn các điều kiện sau: (i) nỗi đau của bệnh nhân là không thể chịu đựng được và không có triển vọng cải thiện; (ii) yêu cầu an tử của bệnh nhân phải tự nguyện (không chịu ảnh hưởng của người khác, tâm lý bệnh tật hoặc của thuốc) và kiên trì theo thời gian; (iii) bệnh nhân phải nhận thức được đầy đủ về tình trạng của mình, triển vọng và các lựa chọn; (iv) phải có sự tham vấn với ít nhất một bác sĩ độc lập khác là người mà cần xác nhận các điều kiện nêu trên; (v) cái chết phải được thực hiện theo cách phù hợp về mặt y tế bởi bác sĩ hoặc bệnh nhân và bác sĩ phải có mặt; (vi) bệnh nhân ít nhất 12 tuổi (bệnh nhân từ 12 đến 16 tuổi đòi hỏi có sự chấp thuận của cha mẹ).

Về số lượng các trường hợp đã thực hiện an tử ở Hà Lan, theo nguồn số liệu thống kê cho thấy, trong khoảng thời gian 7 năm, con số đã tăng lên gấp gần 2,5 lần và dự đoán xu hướng sẽ tiếp tục tăng, thể hiện qua biểu đồ sau:

5000

4500

4000

3500

4829

4188

3695

3000

2500

2000

1500

1000

500

0

3136

1923 2120

2331

2636

2006

2007

2008

2009

2010

2011

2012

2013


Biểu đồ 2.1. Số lượng các trường hợp đã thực hiện an tử ở Hà Lan (2006- 2013) [5]

Tại Hà Lan, khoảng những năm 1970, câu hỏi về ý nghĩa và tính hợp pháp của việc kéo dài sự sống và sự thừa nhận chấm dứt nó trở thành đề tài tranh luận công khai tại Hà Lan. Vấn đề này bắt nguồn từ cuốn sách của Van den Berg, rồi đến các chương trình truyền hình, phát thanh nói về sự hấp hối và những lời nói thực lòng của một bệnh nhân đang chờ chết được phát lên. Chính phủ Hà Lan đã đề xuất một ủy ban xem xét về vấn đề này và yêu cầu sự tư vấn từ Hội đồng y tế, nhất là Ủy ban về đạo đức y tế. Nhiều hội nghị chuyên đề được tổ chức và rồi “hỗ trợ cho quá trình chết” đã trở thành một khái niệm quen thuộc. Cụm từ “cái chết êm ái” đã được nhắc đến nhiều hơn và bắt đầu từ năm 1972, các tổ chức khác nhau đã bắt đầu “thông” được ý kiến của họ về vấn đề này. Các cuộc thăm dò cho thấy tỷ lệ người dân nghĩ rằng cuộc sống đôi khi có thể (chủ động) được chấm dứt và rằng “cái chết êm ái” nên được hợp pháp hóa ngày càng tăng. Trước khi Hội đồng y tế có báo cáo, Tổng thượng Hội đồng cải cách giáo hội Hà Lan đã thông qua một báo cáo, kết luận rằng: “Cái chết êm dịu thụ động”, như việc kiêng các biện pháp kéo dài sự sống vì lý do y tế là có thể chấp nhận; Và, nếu một bệnh nhân có đủ thẩm quyền, vào lúc bắt đầu hấp hối yêu cầu các bác sĩ ngừng điều trị thêm

thì mong muốn này phải được tôn trọng. Rốt cuộc, “cái chết êm dịu” được đa số nhận thức là “hành động với ý định có chủ ý để rút ngắn cuộc sống của bệnh nhân hoặc cố gắng không hành động với ý định cố ý không để kéo dài cuộc sống của bệnh nhân, dù mặt nào thì đây là điều có lợi nhất đối với người bệnh và tình trạng của bệnh nhân vốn không thể cứu chữa”. Ủy ban chức năng cũng đã phân biệt và chi tiết hóa “cái chết êm dịu” ra thành tự nguyện và không tự nguyện, thụ động và tích cực. Đến nay, Hà Lan cũng đã cho phép thực hiện “cái chết êm ái” cho trẻ em dưới 12 tuổi trong điều kiện giám sát nghiêm ngặt [15]

Bỉ:

Bỉ trở thành quốc gia thứ hai trên thế giới thông qua Luật An tử. Tác giả Trương Hồng Quang trong bài viết “Bước đầu tìm hiểu về vấn đề quyền được chết trong bối cảnh hiện nay” có thống kê như sau:

Với 86 phiếu thuận, 51 phiếu chống và 10 phiếu trắng, tối 16/05/2002, Thượng viện Bỉ đã chấp thuận đạo luật cho phép bệnh nhân bị bệnh rất nặng có quyền được chết dưới những điều kiện nhất định. Đây là chặng cuối của cuộc đua pháp lý kéo dài 3 năm, khởi xướng vào năm 1999 khi mà lần đầu tiên trong vòng hơn 40 năm, Liên minh dân sự lên nắm quyền ở Bỉ.

Đạo luật về an tử của Bỉ (The Belgian Act on Euthanasia) được thông qua vào ngày 28/5/2002, chính thức có hiệu lực ngày 03/09/2002 và được sửa đổi ngày 13/02/2014, trong đó có một số nội dung đáng chú ý sau: bác sĩ thực hiện an tử không phạm tội hình sự khi họ đảm bảo rằng: (i) bệnh nhân là một người trưởng thành có năng lực pháp lý, trẻ vị thành niên sống tự lập (emancipated minor) có năng lực pháp lý, hoặc trẻ vị thành niên có năng lực về nhận thức và ý thức tại thời điểm đưa ra yêu cầu; (ii) yêu cầu là tự nguyện, được xem xét thận trọng và được lặp lại và không là kết quả của bất kỳ áp lực bên ngoài nào; (iii) bệnh nhân là người trưởng thành hoặc trẻ vị thành niên sống tự lập ở trong tình trạng y tế vô vọng không thay đổi, và đau khổ thể xác

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 07/07/2023