Đặc Điểm Và Ý Nghĩa Của Quyền An Tử

hoặc động vật nuôi) bị ốm hoặc chấn thương không còn hy vọng [cứu chữa] theo cách ít đau đớn nhất vì lý do nhân từ/nhân đạo”. Một tài liệu khác định nghĩa: “an tử là sự giết chết có chủ ý một người lệ thuộc (a dependent human being) bởi hành động hoặc không hành động vì lợi ích được viện ra của người đó” [5].

The British House of Lords Select Committee on Medical Ethics (Ủy ban đặc biệt của Thượng Nghị viện Anh về Đạo đức y học) định nghĩa về an tử là "một sự can thiệp cố ý được thực hiện với ý định rõ ràng về sự kết thúc một cuộc sống, để xoa dịu sự đau đớn khó chữa"[18]

Như vậy, có thể hiểu “an tử” là việc chủ ý chấm dứt cuộc sống của một người mà thường là những bệnh nhân không còn khả năng cứu chữa theo cách ít hoặc không đau đớn vì những lợi ích của người đó. Theo những phân tích trên, với những mục đích tốt đẹp của an tử thì nên gọi là “cái chết nhân đạo” thay vì gọi “cái chết êm ả”.

An tử bao gồm những nội dung sau:

Thứ nhất, Tính chủ ý chấm dứt cuộc sống

Đây là nội dung quan trọng nhất của quyền an tử. Việc chấm dứt cuộc sống phải là ý chí chủ quan của bệnh nhân, mong muốn của bản thân họ, không bị ép buộc bởi bất cứ chủ thể nào khác. Nếu thiếu đi tính chủ ý thì sẽ không còn là an tử.

Thứ hai, Đối tượng là những người không còn khả năng cứu chữa

Bệnh nhân phải ở trong tình trạng bệnh lý không còn khả năng cứu chữa, chỉ khi có kết luận của hội đồng bác sỹ về tình trạng bệnh lý. Đây là yêu cầu quan trọng giúp phân biệt giữa hành vi hưởng thụ quyền an tử và hành vi tự tử, cũng như phân biệt hành vi thực hiện quyền an tử và hành vi trợ giúp, xúi giục người khác tự tử.

Vậy như thế nào là những người không còn khả năng cứu chữa?Ở các quốc gia đã công nhận hay chưa công nhận quyền an tử có cách phân loại khác nhau về phạm vi các loại bệnh nhân. Theo tác giả Trương Hồng Quang

trong bài viết “Bước đầu tìm hiểu về quyền được chết trong bối cảnh hiện nay”, thì giới y học hầu hết thống nhất có hai dạng bệnh nhân:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 73 trang tài liệu này.

(1) Những trường hợp chết não: “tình trạng toàn não bộ bị tổn thương nặng, chức năng của não đã ngừng hoạt động và người chết não không thể sống lại được”. Bệnh nhân sống hoàn toàn nhờ vào các biện pháp hỗ trợ như hô hấp, tuần hoàn và nuôi dưỡng nhân tạo… nếu rút máy thì coi như sự sống chấm dứt.

(2) Trường hợp người bệnh mất ý thức kéo dài và không có khả năng hồi phục. Trường hợp này bệnh nhân có sống cũng chỉ là gánh nặng của gia đình (bản thân họ không còn biết khổ hay sướng). Đôi lúc người bệnh biểu lộ được ý chí của mình và hoàn toàn không sống nhờ các biện pháp nhân tạo. Trường hợp này bao gồm cả bệnh nhân chịu nhiều đau đớn kéo dài nhưng không mất ý thức thường xuyên.

Quyền an tử và hợp pháp hóa quyền an tử tại Việt Nam - 3

Nguyên nhân dẫn đến các tình trạng trên có thể là sau một tai nạn hay bị mắc bệnh hiểm nghèo, vô phương cứu chữa.

Thứ ba, cách thực hiện ít hoặc không gây đau đớn

An tử tức là cái chết nhẹ nhàng, êm ái, là cái chết nhân đạo. Vì thế cách thức thực hiện an tử cũng phải hạn chế đến mức thấp nhất đau đớn cho bệnh nhân, giúp họ được ra đi một cách thanh thản, chấm dứt cuộc sống đau đớn đã kéo dài. Một số biện pháp có thể thực hiện như: tiêm thuốc, rút ống dẫn…

Thứ tư, vì lợi ích của người được an tử

Với ý nghĩa nhân đạo sâu sắc, an tử trên hết phải với mục đích đem lại sự thanh thản cho người bệnh, giúp họ không phải chịu đựng những ngày tháng đau đơn với bệnh tật, chứ không phải vì bất kỳ lợi ích kinh tế hay nguyên nhân từ chủ thể nào khác (gia đình, xã hội).

Như vậy, có bốn yếu tố để xác định “an tử” đó là: (i) tính chủ ý chấm dứt cuộc sống; (ii) đối tượng là những người không còn khả năng cứu chữa;

(iii) cách thức thực hiện ít hoặc không gây đau đớn; (iv) vì lợi ích của người được an tử. Trong các yếu tố này, “tính chủ ý” được xem là quan trọng

nhất mà thiếu nó sẽ không được coi là an tử; lợi ích của người được an tử thường là để chấm dứt những nỗi đau không thể chịu đựng được (mục đích nhân đạo) và để giảm gánh nặng kinh tế cho gia đình và người thân.

An tử có thể được phân loại dựa trên nhiều tiêu chí, trong đó hai tiêu chí có thể thể hiện rõ nhất tính chất của vấn đề đó là dựa trên sự tự nguyện và cách thức thực hiện.

- Dựa trên tính chất ý chí của người được an tử, an tử có thể chia thành an tửtự nguyện (Voluntary Euthanasia), an tử không tự nguyện (Non - VoluntaryEuthanasia), và an tử trái nguyện vọng(Involuntary Euthanasia).

An tử tự nguyện (Voluntary Euthanasia): Bệnh nhân trong tình trạng tỉnh táo(nghĩa là có ý thức, đủ tuổi và cảm xúc ổn định), có sự đồng tình rõ ràng trong quyết định kết thúc cuộc sống với sự hỗ trợ, trợ giúp của bác sĩ. Ví dụ: Thực hiện theo yêu cầu của bệnhnhân ung thư giai đoạn cuối ngừng điều trị bằng việc ngừng tiêm thuốc hóa trị do tình trạng tâm lý và sức khỏe hiện nay hay ở tương lai tiên liệu được.

An tử không tự nguyện (Non - Voluntary Euthanasia): Bệnh nhân không có khả năng bày tỏ sự ưng thuận và tự đưa ra quyết định (Trẻ sơ sinh thiểu năng trầm trọng, bệnh nhân trong tình trạng thực vật vĩnh viễn, người tâm thần), quyết định chấm dứt cuộc sống của họ do người khác đưa ra (người thân)

An tử trái nguyện vọng(Involuntary Euthanasia): Bệnh nhân không hề bày tỏ mong muốn, cũng không hề đưa ra bất cứ bằng chứng nào cho thấy mạng sống của người ấy cần phải được chấm dứt, nhưng việc này vẫn được thực hiện trái ý chí của người bệnh. Khác với an tử không tự nguyện, ở an tử trái nguyện vọng bệnh nhân tỉnh táo, có thể tự đưa ra quyết định, minh nhiên từ chối, không đồng ý việc bị làm chết.

- Dựa trên tiêu chí cách thức thực hiện, an tử được chia thành an tử chủ động (Active Euthanasia/Euthanasia by Action), an tử thụ động (Passive Euthanasia/Euthanasia by Omission)

An tử chủ động (Active Euthanasia): Trường hợp có sự tác động của người khác để giúp bệnh nhân chấm dứt cuộc sống một cách nhanh chóng. Ví dụ: Bác sĩ trực tiếp gây tử vong theo yêu cầu của bệnh nhân bằng cách tiêm thuốc… Đây được coi là cách thức hiệu quả nhất dù tình trạng bệnh nhân có như thế nào. Hình thức này được hợp pháp hóa ở Netherlands và Australia.

An tử thụ động (Passive Euthanasia): Ngừng các biện pháp điều trị đang áp dụng cho bệnh nhân để bệnh nhân chết đi. Ví dụ: Bác sĩ ngưng mọi biện pháp kéo dài sự sống đối với bệnh nhân như rút ống dẫn, tắt máy trợ thở, ngừng việc tiêm các chất hóa trị… Tuy nhiên, vẫn duy trì các biện pháp/thuốc giảm đau. Như vậy, an tử thụ động phụ thuộc vào khá nhiều yếu tố, đặc biệt là tình trạng bệnh nhân

Bên cạnh thuật ngữ an tử, ở nhiều quốc gia còn sử dụng thuật ngữ trợ tử (physician-assisted suicide: tự tử với sự trợ giúp của bác sĩ).Nếu như an tử là việc biết, trực tiếp hành động một cách có chủ đích đem đến cái chết nhẹ nhàng cho một cá nhân thì trợ tử được định nghĩa là việc biết, hành động trực tiếp một cách có chủ đích cung cấp phương tiện để cá nhân thực hiện việc tự tử. Như vậy có thể thấy, điểm phân biệt lớn nhất giữa an tử và trợ tử là chủ thể nắm giữ vai trò chủ đạo trong quá trình, hay chủ thể thực hiện toàn bộ hành vi hoặc thực hiện hành vi cuối cùng. Có sự khác biệt như vậy nhưng nếu xét cho cùng thì trợ tử là hình thức sơ khai của an tử, trong đó vai trò của bác sĩ chưa được mở rộng. Ở hầu hết các nước đã thông qua luật an tử, hành vi trợ tử cũng hợp pháp và dùng chung với nhau.

Theo một báo cáo năm 2010 tại Hà Lan tỷ lệ an tử chủ động là 2,8% trong khi trợ tử là 0,1% trên tổng số người chết. Ở những vùng lãnh thổ mới chỉ hợp pháp hóa hành vi trợ tử, an tử có thể bị coi là hành vi vượt quá thẩm quyền và dẫn tới khả năng phải chịu trách nhiệm pháp lý hoặc trách nhiệm nghề nghiệp cho người thực hiện [6].

1.2.2. Quyền an tử

Xuất phát từ khái niệm an tử, quyền an tử có thể được định nghĩa là quyền nhân thân và là đặc quyền của những cá nhân rơi vào trạng thái bệnh lý

không có khả năng chữa trị, được quyết định kết thúc cuộc sống của mình với sự hỗ trợ của chủ thể có thẩm quyền và tuân theo quy định chặt chẽ của phápluật [6]

Tuy nhiên, một quyền được công nhận là quyền nhân thân chỉ khi quyền đó được pháp luật ghi nhận một cách chính thức.Quyền an tử(hay quyền được chết - right to die) trên thực tế chỉ được công nhận là quyền nhân thân ở một số quốc gia hợp pháp hóa an tử. Theo quan điểm của các nhà lập pháp và các nhà khoa học, công nhận quyền được chết là quyền nhân thân nhưng chưa quy định trong Luật. Thực tế cho thấy có quy định hay không chỉ là vấn đề về mặt thời gian: có phù hợp với hiện tại hay không và hệ thống pháp luật có đồng bộ, thống nhất hay không. Khi chưa được công nhận về mặt pháp luật, một người nếu thực hiện hành vi trợ giúp tự tử, giúp người bệnh ra đi có thể quy vào một số tội như: tội giết người, tội giúp người khác tự sát…

Hiện nay, chưa có một định nghĩa cụ thể về quyền an tử. Tuy nhiên, theo phân tích các quan điểm đồng tình và đạo luật một số quốc gia đã hợp pháp hóa an tử cũng như quan điểm cá nhân, có thể hiểu: Quyền an tử là một quyền nhân thân của những người đang phải chịu sự đau đớn về thể chất hoặc tinh thần kéo dài và không thể chịu đựng được sau một tai nạn hay một bệnh nan y không thể cứu chữa, và việc thực hiện quyền này phải tuân theo quy định của pháp luật.

1.3. Đặc điểm và ý nghĩa của quyền an tử

1.3.1. Đặc điểm

- Quyền an tử là một quyền nhân thân

Quyền an tử gắn liền với một chủ thể nhất định và không thể chuyển giao cho chủ thể khác. Điều này có nghĩa rằng bản thân chủ thể hưởng quyền an tử họ không thể chuyển giao quyền này cho người khác và cũng không ai có thể đại diện cho họ để thực hiện quyền này. Một cá nhân không thể áp đặt quyền an tử lên một chủ thể nào khác ngoài chính bản thân mình, đơn giản bởi sự sống của chủ thể đó không thuộc phạm vi có thể quyết định rằng chấm

dứt hay không của họ. Hơn nữa, quyền an tử cũng mang tính chất phi tài sản. Quyền an tử không thể đem ra mua bán, cầm cố, thế chấp… đây là hệ quả của tính chất không thể chuyển giao của quyền nhân thân, chủ thể khác không thể đặt mình vào vị thế của có quyền để hưởng thụ quyền này.

- Quyền an tử là đặc quyền

Điều này không có nghĩa quyền an tử chỉ thuộc về một nhóm chủ thể cá biệt trong xã hội, mà đặc biệt có nghĩa quyền an tử chỉ phát sinh khi chủ thể hưởng thụquyền ở trong tình trạng đặc biệt, rơi vào trạng thái bệnh lý không còn khả năng cứu chữa. Đây là đặc điểm quan trọng giúp phân biệt giữa hành vi hưởng thụ quyền an tử và hành vi tự tử, cũng như phân biệt hành vi thực hiện quyền an tử và hành vi trợ giúp, xúi giục người khác tự tử. Nếu như quyền an tử và thực hiện quyền an tử chỉ áp dụng đối với những bệnh nhân mắc bệnh nan y, không có hy vọng chữa trị và trong luật pháp một số quốc gia còn quy định thêm rằng thời hạn sống không còn dài, thì tự tử và hành vi xúi giục, trợ giúp người khác tự tử có thể được thực hiện bởi các chủ thể không mắc bệnh ,vì thế bị coi là hành vi có hại cho xã hội và bị luật pháp nhiều quốc gia quy định là tội hình sự.

- Quyền an tử là quyền thực hiện được khi có sự hỗ trợ của chủ thể có thẩm quyền

Quyền an tử không giống như các quyền khác là chủ thể có thể tự do hưởng thụ quyền bằng khả năng của mình. Một chủ thể khi hội tụ đủ các điều kiện chỉ có thể hưởng thụ quyền thông qua sự trợ giúp của người khác. Sự trợ giúp này có thể biểu hiện bằng hành vi hành động (tiêm thuốc gây chết người trong an tử chủ động) hoặc không hành động (không tiếp tục các hỗ trợ y tế trong an tử bị động). Ngay cả trong trường hợp trợ tử khi người bệnh tự thực hiện việc đưa thuốc gây chết vào cơ thể hoặc uống thuốc gây chết, họ vẫn cần đến sự trợ giúp của bác sĩ trong việc kê đơn và có được các loại thuốc mình cần một cách hợp pháp. Mọi hành vi chấm dứt cuộc sống không có sự hỗ trợ của chủ thể có thẩm quyền đều mang tính chất chủ quan, bộc phát. Ngoài ra,

chủ thể hỗ trợ cũng phải tuân theo các quy định của pháp luật. Họ phải là những bác sĩ có bằng cấp, đủ thẩm quyền thực hiện chứng nhận tình trạng của bệnh nhân cũng như có đủ kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm để thực hiện an tử trong trường hợp bệnh nhân không thể hoặc không muốn tự thực hiện.

- Mục đích của quyền an tử là giúp bệnh nhân được kết thúc cuộc sống một cách nhanh chóng và an toàn theo mong muốn.

Đây chính là mục đích nhân đạo của an tử mà tất cả các quốc gia hướng tới. An tử giúp cho những bệnh nhân trong tình trạng không thể cứu chữa được ra đi thanh thản, không phải chịu đau đớn, sống những ngày dài chiến đấu với bệnh tật. An tử là cách giải thoát hợp lý nhất trong trường hợp này.

- Quyền an tử là quyền được thực hiện theo quy định chặt chẽ của phápluật.

Xuất phát từ tính chất nhân thân và đặc quyền, quyền an tử chỉ được thực hiện khi đáp ứng đủ các điều kiện và theo quy trình chặt chẽ do pháp luật các quốc gia quy định. Hiện nay, ở nhiều quốc gia, thủ tục để tiến hành việc an tử cũng như để thụ hưởng quyền an tử hết sức chặt chẽ nhằm mục đích tránh mọi trường hợp lạm dụng, bởi hậu quả của một vụ sai phạm là không thể cứu chữa bằng mọi biện pháp. Việc không tuân thủ đúng theo các quy định này có thể làm phát sinh trách nhiệm hình sự, dân sự hoặc kỷ luật nghề nghiệp đối với người thực hiện an tử cho bệnh nhân.

- Quyền này có thể được yêu cầu bởi chính người đó hoặc người đại diện

Như đã phân tích, quyền an tử phải xuất phát từ sự tự nguyện của người yêu cầu: tự nguyện được thực hiện an tử khi còn tỉnh táo, tự nguyện chỉ định người đại diện cho mình trong trường hợp rơi vào tình trạng không biểu lộ được ý chí (người này sẽ có quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến việc chữa bệnh của bệnh nhân).

- Chủ thể của quyền này là người đang chịu sự đau đớn kéo dài do bệnh tật hoặc tai nạn

Không phải ai cũng là đối tượng của quyền an tử. An tử chỉ được áp dụng với một số đối tượng đặc thù: bệnh nhân đang trong tình trạng đau đớn

cả về thể chất lẫn tinh thần, không thể cứu chữa được, do tai nạn hoặc mắc bệnh nan y, vô phương cứu chữa.

1.3.2. Ý nghĩa

1.3.2.1. Ý nghĩa pháp lý

Quyền an tử được công nhận là sự khẳng định rằng pháp luật tôn trọng giá trị tự do và quyền tự quyết của con người. Pháp luật các quốc gia, khu vực và quốc tế ngày càng đề cao các giá trị này, trong khi quyết định về giá trị cuộc sống của chính bản thân mình lại là quyết định căn bản và gắn liền với mỗi chủ thể nhất định.

Quyền an tử sẽ là công cụ pháp lý giúp cho việc quản lý hoạt động an tử. Vì bị cấm đoán hoặc không được cho phép nên những người có nguyện vọng được hưởng thụ quyền an tử cũng như những bác sĩ có ý định thực hiện an tử cho người bệnh luôn phải sống một cuộc sống ngầm với những hành vi mà họ cố tình che giấu không để cho người khác biết. Công nhận quyền an tử sẽ góp phần thay đổi cách nhìn của xã hội đối với những đối tượng này từ đó họ sẽ không muốn che giấu và công khai hóa hành vi của mình. Sự công khai này là điều kiện thuận lợi để nhà nước có thể quản lý một cách hiệu quả.

Việc công nhận quyền an tử sẽ giải quyết được tình trạng pháp lý bế tắc cũng như nhu cầu được an tử trong thực tiễn. Hợp pháp hóa an tử giúp cho việc quản lý hoạt động này được công khai, minh bạch, dễ dàng mà còn hạn chế được trường hợp sử dụng an tử vào mục đích khác thay vì nhân đạo.

1.3.2.2. Ý nghĩa xã hội

Sự không công nhận quyền an tử đã và đang gây ra nhiều tranh cãi cũng như bức xúc trong cộng đồng những người hành nghề y, những người hành nghề luật cũng như những bệnh nhân mắc bệnh nan y. Thời kỳ trước đây, những bức xúc đó còn chưa đáng kể vì nhiều nguyên nhân: số lượng người có nhu cầu hưởng thụ quyền còn thấp, tư tưởng tôn giáo mang đậm thành kiến với hành vi tự nguyện chấm dứt cuộc sống. Trải qua thời gian, số lượng người có mong muốn hưởng thụ quyền đã tăng lên, hơn nữa, sự giao

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 07/07/2023