Theo mô hình trên có thể thấy, khi TSC và TSN của NH có sự chênh lệch, NH sẽ gặp rủi ro lãi suất nếu lãi suất thị trường biến động. Ảnh hưởng của sự thay đổi lãi suất tới thu nhập lãi ròng của NH được tóm tắt như sau:
Bảng 1.1 Mối quan hệ giữa GAP sự thay đổi lãi suất và sự thay đổi thu nhập lãi
ròng
Δi | ΔNII | |
>0 | > 0 | > 0 |
> 0 | < 0 | < 0 |
< 0 | > 0 | < 0 |
< 0 | < 0 | > 0 |
= 0 | = 0 |
Có thể bạn quan tâm!
- Quản trị rủi ro lãi suất trong hoạt động kinh doanh tại ngân hàng Agribank Việt Nam - 1
- Quản trị rủi ro lãi suất trong hoạt động kinh doanh tại ngân hàng Agribank Việt Nam - 2
- Vai Trò Của Lãi Suất Trong Nền Kinh Tế
- Sự Không Phù Hợp Về Kì Hạn Của Nguồn Và Tài Sản
- Đánh Giá Chung Về Kết Quả Hoạt Động Kinh Doanh Của Agribank
- Tăng Trưởng Nguồn Vốn Tại Agribank Qua Các Năm 2012 2016
Xem toàn bộ 100 trang tài liệu này.
(Nguồn: Tạp chí Ngân hàng số 08, tr 16, 8/2005)
Như vậy có thể thấy không phải trong trường hợp nào sự biến động của lãi suất thị trường cũng gây thiệt hại cho NH. Cụ thể, trong trường hợp NH duy trì GAP >0 khi lãi suất thị trường tăng và GAP<0 khi lãi suất thị trường giảm, NH sẽ được lợi vì thu nhập lãi ròng của NH tăng. RRLS đến từ hai trường hợp lãi suất thị trường giảm kết hợp khe hở lãi suất GAP >0 và lãi suất thị trường tăng kết hợp GAP< 0.
Đối với việc đo lường rủi ro lãi suất, chúng ta có thể áp dụng mô hình định giá lại vì công việc tính toán được thực hiện tương đối đơn giản, tuy nhiên
để áp dụng được mô hình này trong công tác quản lý rủi ro lãi suất tại các
NHTM Việt Nam thì trước mắt cần phải giải quyết một số vấn đề sau :
Cần có sự nhận thức đầy đủ và quan tâm đúng mức, toàn diện về công tác quản lý rủi ro lãi suất trong hệ thống ngân hàng, từ NHNN là cơ quan có chức năng quản lý Nhà nước về hoạt động ngân hàng đến các NHTM và các TCTD khác.
Cần thay đổi phương pháp thống kê tại các NHTM để ngân hàng có thể xác định được nhanh chóng thời hạn còn lại của toàn bộ tài sản Có và tài sản Nợ trên bảng cân đối tài sản của ngân hàng.
Tại các NHTM cần thiết lập bộ phận chuyên trách về quản lý rủi lãi suất để thực hiện các công việc: dự báo thay đổi lãi suất thi trường, đo lường rủi ro lãi suất, nghiên cứu các công cụ phòng ngừa rủi ro và đưa ra các yêu cầu cụ thể cho các bộ phân tác nghiệp trong ngân hàng để thực hiện biện pháp phòng ngừa rủi ro…
NHNN cần xây dựng một hệ thống chỉ tiêu kiểm tra và thực hiện tốt công tác thanh tra giám sát về thực tế quản lý rủi ro lãi suất tại các NHTM.
1.2.1.3. Mô hình thời lượng Khái niệm
Mô hình thời lượng là phương pháp đo lường sự nhạy cảm của giá (giá trị của vốn) của khoản đầu tư có thu nhập cố định tới sự thay đổi của lãi suất thị trường.
Thời lượng của một tài sản là thước đo kỳ hạn thực tế của một tài sản sinh lời, được xác định trên cơ sở các giá trị hiện tại của nó. Thời lượng TSC thực chất là thời gian trung bình cần thiết để thu hồi khoản vốn đã đầu tư. Thời lượng TSN xác định thời gian trung bình cần thiết để hoàn trả khoản vốn đã huy động.
Công thức
D =
Trong đó:
D: Thời lượng của tài sản
PVt: Giá trị hiện tại của luồng tiền nhận được tại thời điểm cuối kỳ t N: Tổng số luồng tiền phát sinh từ tài sản
Xét sự ảnh hưởng của lãi suất tới giá trị tài sản, ta có công thức:
= P = PD*
Trong đó:
: Sự thay đổi giá trị tài sản do ảnh hưởng của sự thay đổi trong lãi suất P: Giá của tài sản
Y: Lãi suất đến hạn
D*: Thời lượng được điều chỉnh
Theo công thức này, khi lãi suất thay đổi, giá trị của tài sản biến động
ngược chiều. Nói cách khác, với một sự thay đổi lãi suất nhất định, tài sản có thời lượng càng dài thì sự thay đổi giá trị càng lớn.
Về ý nghĩa kinh tế, thời lượng là phép đo trực tiếp độ nhạy cảm của giá trị tài sản đối với lãi suất hay nói cách khác, nếu D* của tài sản là X, khi lãi suất tăng 1% thì giá trị hiện tại của tài sản giảm đi X%.
Đo lường thiệt hại của NH khi lãi suất thay đổi trên cơ sở tính toán thời lượng hai vế của bảng cân đối tài sản:
DA =
Trong đó: DAi: thời lượng của tài sản có thứ i XAi: tỷ trọng của tài sản có thứ i
DL =
Trong đó: DLi: thời lượng của tài sản có thứ i X Li: tỷ trọng của tài sản có thứ i
Công thức đo lường thiệt hại của Ngân hàng trước sự biến động của lãi suất như sau:
∆ E = A*(∆i/(1+i ) x (DA – kDL)
Trong đó: k = là tỷ lệ vốn huy động trên tổng tài sản có của NH, gọi là tỷ lệ đòn bẩy k
Các tình huống xảy ra:
(DA – kDL) > 0 i tăng => E giảm
(DA – kDL) < 0 i giảm
Hạn chế của mô hình thời lượng
=> E giảm
Thứ nhất, hạn chế về tính lồi của mô hình. Mô hình thời lượng là phép đo chính xác sự thay đổi thị giá của các chứng khoán có thu nhập cố định khi lãi suất thị trường thay đổi ở mức nhỏ. Tuy nhiên khi lãi suất thị trường thay đổi ở mức lớn thì mô hình thời lượng cho kết quả kém chính xác bởi vì mô hình giả định rằng mối quan hệ giữa lãi suất và giá tài sản là tuyến tính (dạng đường thẳng) nhưng thực chất mối quan hệ này là phi tuyến (dạng đường cong). Vì vậy, nếu lãi suất thị trường thay đổi ở mức lớn thì mô hình trở nên kém tin cậy.
Thứ hai, vấn đề tuyến lãi suất nằm ngang. Một trong các giả định của mô hình là tuyến lãi suất hay cấu trúc kỳ hạn của lãi suất nằm ngang, điều này có nghĩa là mỗi khi lãi suất thay đổi thì tuyến lãi suất tịnh tiến song song. Tuy nhiên, trong thực tế, tuyến lãi suất có rất nhiều hình dạng khác nhau, trong đó chỉ có tuyến lãi suất có dạng gần như năm ngang chứ không nằm ngang hoàn toàn. Do vậy, khi sử dụng mô hình thời lượng sẽ tiềm ẩn một sai số đáng kể trong việc đo độ nhạy cảm của giá trị tài sản đối với sự thay đổi của lãi suất.
Thứ ba, vấn đề trì hoãn thanh toán. Mô hình thời lượng giả định rằng các KH của NH thanh toán lãi và gốc theo đúng kỳ hạn đã được quy định trong hợp đồng. Tuy nhiên, trên thực tế KH có thể vì nhiều lý do mà chậm thanh toán, trong nhiều trường hợp NH cũng phải cơ cấu lại khoản nợ hoặc gia hạn nợ cho KH. Và do đó, luồng tiền của NH sẽ thay đổi và đây chính là lý do khiến NH phải tính toán và điều chỉnh lại thời lượng TSC và TSN để đảm bảo chính xác trong việc đo lường RRLS.
Các ngân hàng thương mại có thể sử dụng một hoặc kết hợp các mô hình này để áp dụng vào quản lý rủi ro lãi suất trong hoạt động kinh doanh của mình.
Các ngân hàng thương mại có thể sử dụng một hoặc kết hợp các mô hình này để áp dụng vào quản lý rủi ro lãi suất trong hoạt động kinh doanh của mình.
1.2.3. Kiểm soát rủi ro lãi suất
Cơ cấu giám sát rủi ro nội bộ của ngân hàng bảo đảm chức năng an toàn và hợp lý của tổ chức nói chung và quá trình quản trị rủi ro lãi suất nói riêng. Việc thiết lập và duy trì một hệ thống kiểm soát hiệu quả, bao gồm sự tuân thủ các chuẩn mực trong ngân hàng và sự phân tách trách nhiệm trong ban điều hành. Những cán bộ chịu trách nhiệm đánh giá quy trình giám sát và kiểm soát rủi ro nên độc lập với chức năng khác. Các nhân tố chính của quá trình kiểm soát bao gồm: kiểm tra quá trình quản trị rủi ro lãi suất và những hạn mức rủi ro hiệu quả do ban điều hành của ngân hàng đề ra.
1.2.4. Xử lý rủi ro lãi suất
Định kỳ, ngân hàng sẽ đánh giá lại các chiến lược quản trị rủi ro lãi suất được tiến hành có hiệu quả và phù hợp với dự tính về rủi ro lãi suất hay không. Ban quản lý cấp cao có hệ thống báo cáo cho phép họ giám sát tình hình rủi ro hiện tại và tiềm năng để đảm bảo rằng các mức độ đó nhất quán với các mục tiêu đã đề ra.
1.3. Các tiêu chí đánh giá quản trị rủi ro lãi suất
1.3.1. Hệ số rủi ro lãi suất
Khi sử dụng kĩ thuật này yêu cầu nhà quản trị phải tiến hành phân tích kì hạn, định giá lại những cơ hội gắn với những tài sản sinh lời của ngân hàng, những khoản tiền gửi cũng như vốn vay trên thị trường. Nếu nhà quản trị thấy rằng mức độ rủi ro là quá lớn, họ sẽ phải thực hiện một số điều chỉnh sao cho giá trị của các tài sản nhạy cảm với lãi suất trở nên phù hợp tới mức tối đa với
giá trị nguồn nhạy cảm với lãi suất. Việc quản trị khe hở lãi suất là vô cùng khó khăn và phức tạp đòi hỏi nhà quản trị phải có trình độ và việc xác định thời điểm định giá lại các tài sản và nguồn của ngân hàng và lựa chọn thời gian thích hợp để cân bằng tài sản và nguồn nhạy cảm với lãi suất là không đơn giản.
Khi lãi suất thay đổi thì ảnh hưởng đến ngân hàng đó là làm giảm lợi
nhuận của ngân hàng, để xác định ngân hàng có rủi ro lãi suất không người ta sử dụng hệ số sau:
Rủi ro lãi suất (ISR) = Tài sản nhạy cảm với lãi suất / Nguồn vốn nhạy cảm với lãi suất
Hệ số trên chỉ ra khả năng rủi ro khi có biến động về lãi suất:
• ISR >1 nếu lãi suất tăng thì thu lãi>trả lãi thì ngân hàng không bị rủi ro lãi suất, nếu lãi suất giảm thì thu nhập ngân hàng<chi phí trả lãi tức là rủi ro lãi suất xảy ra
• ISR <1 thì khi lãi suất tăng thì thu nhập < chi phí, rủi ro lãi suất xảy ra
• ISR =1 không có thay đổi khi có biến động về lãi suất
1.3.2. Hệ số chênh lệch lãi thuần
Công thức tính hệ số chênh lệch lãi thuần như sau:
Hệ số chênh lệch lãi thuần = (Thu nhập lãi Chi phí lãi suất) / Tổng tài sản sinh lời
Hệ số này phản ánh cho ta biết đươc khi có sự biến động về lãi suất thì việc thay đổi trong lãi thuần sẽ bị tác động như thế nào.
Hệ số này càng lớn thì càng tốt chứng tỏ khoản thu nhập có lãi là lớn hơn chi phí lãi suất.
1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến quản trị rủi ro lãi suất của Ngân hàng thương mại
1.4.1. Nhân tố bên ngoài
1.4.1.1. Chính sách điều hành tiền tệ của NHNN
Để đảm bảo mục tiêu tăng trưởng kinh tế, từ năm 2013 đến 2016, cung tiền mỗi năm tăng 20% trong khi lãi suất và tỷ lệ dự trữ bắt buộc giữ nguyên không đổi đã khiến lạm phát liên tục ở mức cao, tình trạng dư VNĐ kéo dài, lãi suất thị trường LNH giảm, có thời điểm lãi suất huy động LNH kỳ hạn 1 tháng chỉ khoảng 4.2%/năm. Với lãi suất thực âm (giá vốn quá rẻ), các nhà đầu tư dễ dàng vay tiền để đầu tư vào bất động sản và chứng khoán bất chấp rủi ro. Ngay cả các ngân hàng hầu như cũng bỏ qua các biện pháp kiểm soát rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất (dùng nguồn vốn ngắn hạn, vốn vay trên thị trường LNH cho vay trung dài hạn) để đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng nhằm đạt được lợi nhuận cao hơn. Có ngân hàng dư nợ tín dụng cuối năm 2015 tăng 500% so với năm 2014. Cuối năm 2015, lạm phát ở mức 11%. Tổng dư nợ giữa 2015 gần 1000 tỷ đồng, tăng hơn ba lần so với năm 2014 và bằng khoảng 90% GDP năm 2016.
Trên thực tế, tồn tại một nghịch lý: Lãi suất LNH thấp nhưng lãi suất huy động dân cư và các TCKT tại các ngân hàng vẫn tiếp tục tăng. Nghịch lý này vẫn tồn tại vì khả năng tiếp cận với khách hàng ở các ngân hàng khác nhau là khác nhau. Các ngân hàng TMCP nhỏ nguồn vốn huy động không đủ đáp ứng nhu cầu vay vốn nên phải tăng lãi suất để thu hút khách hàng. Trong khi đó, các ngân hàng có quy mô lớn, nguồn vốn huy động được vượt nhu cầu cho vay nhưng vẫn giữ lãi suất huy động cao để giữ khách.
Thực trạng này sẽ gây khó khăn cho việc thực thi chính sách tiền tệ: Một khi còn có các ngân hàng dư thừa vốn trong khi còn có những ngân hàng thiếu vốn. Việc NHNN thay đổi cung tiền, thay đổi lãi suất cơ bản để thực thi các chính sách tiền tệ là rất khó khăn. Về mặt lý thuyết, khi nguồn vốn ngắn hạn trên thị trường tiền tệ dư thừa, để ổn định lãi suất, NHNN phải hút tiền về để đảm bảo cung cầu vốn cân bằng, không gây áp lực giảm lãi suất thị trường và ngược lại.
Ngoài ra, vì các ngân hàng quy mô lớn, nguồn vốn huy động vượt nhu cầu cho vay, trong cơ cấu tổng tài sản luôn dành một phần nguồn vốn đầu tư vào các giấy tờ có giá, có thể tham gia vào thị trường mở để vay vốn của NHNN với lãi
suất thấp để tăng tính thanh khoản cho Ngân hàng. Trong khi đó, các ngân hàng quy mô nhỏ, dưới áp lực lợi tức cho cổ đông không những đã sử dụng hầu hết vốn huy động được mà còn sử dụng vốn vay LNH để đẩy mạnh cho vay tín dụng mà không đầu tư hoặc đầu tư rất ít vào giấy tờ có giá nên không thể vay tiền NHNN thông qua thị trường mở. Khi NHNN hút một lượng lớn tiền lưu thông trên thị trường về, các khoản tiền gửi có kỳ hạn của các Ngân hàng khác bị rút về sẽ làm cho các ngân hàng nhỏ bị mất cân đối nguồn vốn trầm trọng, để đảm bảo thanh khoản, các ngân hàng nhỏ phải vay các ngân hàng có quy mô lớn với lãi suất cao, có thời điểm lên đến gần 35%/năm và bắt đầu cuộc đua lãi suất để bù đắp khoản tiền gửi bị các Ngân hàng khác rút về.
Việc thay đổi liên tục các quyết định về lãi suất huy động áp dụng tại các ngân hàng TMCP của NHNN (ấn định lãi suất trần huy động 8%/năm; thay đổi lãi suất cơ bản từ 8.75%/năm lên đến 10%/năm, 12%/năm, 13%/ năm) đã tạo tâm lý không ổn định cho khách hàng gửi tiền, vì vậy khách hàng chỉ gửi tiền với kỳ hạn ngắn do kỳ vọng lãi suất sẽ tăng. Điều này làm ảnh hưởng đến kế hoạch kinh doanh của các Ngân hàng, gây khó khăn đến công tác Quản trị TSN – TSC của ngân hàng. Vì các ngân hàng chủ yếu huy động được các nguồn vốn ngắn hạn, và khách hàng sẵn sàng rút tiền từ chỗ có lãi suất thấp sang nơi có lãi suất cao, làm các ngân hàng bị động trong hoạt động kinh doanh của mình.
1.4.1.2. Lạm phát
Khi lạm phát tăng, dù ở từng mức lãi suất riêng lẻ hay ở tất cả mọi lãi suất, yếu tố kích thích làm tăng cung quỹ cho vay gần như triệt tiêu bởi giá trị thực tế của vốn gốc và tiền lời thu được đã bị hao mòn do tác động của lạm phát. Trong tình hình ấy những người có khả năng cho vay không muốn giữ tiền mặt, đổ xô đi mua hàng hóa dự trữ vàng, ngoại tệ.
Lạm phát tăng, không chỉ làm giảm độ lớn của cung mà còn kéo theo việc tăng thêm quy mô về cầu quỹ cho vay. Bởi với lãi xuất danh nghĩa cho trước , khi lạm phát dự tính tăng lên , chi phí thưc của việc vay tiền giảm xuống , kích thích người ta đi vay hơn là cho vay. Người đi vay sẽ kiếm được khoản thu lợi do giá