Chính Sách Nhận Biết Và Quản Lý Nợ Có Vấn Đề


dụng biện pháp cho vay có bảo đảm bằng tài sản. Quản trị tín dụng của từng ngân hàng đều thể hiện cụ thể tiêu chuẩn khách hàng được áp dụng cho vay không phải thực hiện bảo đảm tiền vay bằng tài sản.

Việc xem xét danh mục tài sản bảo đảm tiền vay trước hết dựa vào các qui định chung của pháp luật về giao dịch bảo đảm. Tuy nhiên, ngân hàng không lựa chọn tất cả danh mục thuộc qui định chung của luật làm bảo đảm tiền vay. Các ngân hàng không muốn nhận các tài sản có giá trị giảm dần theo thời gian để làm đảm bảo tiền vay, vì như vậy sẽ gặp rủi ro do giá trị tài sản thế chấp còn lại sẽ thấp hơn nợ khó đòi tại thời điểm xử lý tài sản để thu nợ. Ngân hàng chỉ nhận các tài sản có khả năng bán được dễ dàng và có giá trị mang tính ổn định hoặc có xu hướng gia tăng về giá trị như đất, tài sản gắn liền với đất, trái phiếu chính phủ, cổ phiếu của các DN uy tín… làm đảm bảo tiền vay. Đối với các tài sản có nguy cơ rủi ro cao như hàng hóa trên đường vận chuyển, phương tiện vận tải... các ngân hàng thường yêu cầu bên bảo đảm phải mua bảo hiểm trong suốt thời gian vay vốn.

Quản trị đối với bảo đảm tiền vay còn phức tạp hơn khi tính hiệu lực và thủ tục xử lý các tài sản bảo đảm khi khách hàng không trả được nợ. Do vậy trong quản trị đối với bảo đảm tiền vay cần tính đến các yếu tố ảnh hưởng của nó như thủ tục hành chính, tính hiệu lực của pháp luật, chính sách của nhà nước đối với các chủ thể kinh tế; những khía cạnh về cung – cầu, đầu cơ, giá cả thị trường...

2.2.2.10. Chính sách nhận biết và quản lý nợ có vấn đề

Nhận biết nợ có vấn đề và quản lý nợ có vấn đề là rất phức tạp, vấn đề đặt ra là làm thế nào để sớm nhận biết các khoản nợ có nguy cơ xảy ra rủi ro - nợ có vấn đề - và khi đã phát sinh nợ có vấn đề thì làm sao để quản lý và thu hồi. Quản trị tín dụng của NHTM phải giải quyết được vấn đề này.

Nợ có vấn đề là các khoản tín dụng cấp cho khách hàng không thu hồi được hoặc có dấu hiệu không thể thu hồi được theo đúng cam kết trong hợp đồng tín dụng. Nợ có vấn đề hiểu theo nghĩa rộng không chỉ những khoản nợ đã quá hạn thanh toán, thanh toán không đúng kỳ hạn (NQH thông thường, nợ khó đòi, nợ chây ỳ, nợ khoanh, nợ tồn đọng), mà còn cả những khoản nợ trong hạn. Những khách


hàng có dấu hiệu suy giảm về khả năng SX-KD và khả năng tài chính có thể dẫn tới không có khả năng trả nợ đầy đủ cho ngân hàng. Quản lý nợ có vấn đề là quá trình phòng ngừa, kiểm tra, giám sát và các biện pháp xử lý đối với những khoản nợ có vấn đề nhằm giảm thiểu mức độ rủi ro có thể xảy ra.

Qui trình quản lý nợ có vấn đề gồm các bước: nhận biết các dấu hiệu và nguyên nhân của nợ có vấn đề; kiểm tra hồ sơ các khoản nợ có vấn đề; gặp gỡ, làm việc với khách hàng; lập kế hoạch hành động; thực hiện kế hoạch; quản lý, theo dõi việc thực hiện kế hoạch. Ngoài việc xây dựng một chính sách chung về quản lý, xử lý đối với các nhóm, loại nợ có vấn đề, NHTM thường có kế hoạch, phương án chi tiết cho việc xử lý từng món nợ có vấn đề cụ thể.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 224 trang tài liệu này.

Quản trị tốt đối với giám sát phát hiện kịp thời các khoản nợ có vấn đề và quản lý nợ có vấn đề có tác dụng to lớn trong quản trị tín dụng của NHTM.

2.2.2.11. Quản trị quy trình tín dụng

Quản trị hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại tại Lào - 6

Quy trình chung về vay vốn tín dụng Ngân hàng

1. Quy trình tín dụng?

Quy trình tín dụng là bảng tổng hợp mô tả công việc của ngân hàng từ khi tiếp nhận hồ sơ vay vốn của một khách hàng cho đến khi quyết định cho vay, giải ngân, thu nợ và thanh lý hợp đồng tín dụng.

2. Ý nghĩa của quy trình tín dụng?

Việc xác lập một quy trình tín dụng và không ngừng hoàn thiện nó đặc biệt quan trọng đối với một ngân hàng thương mại.

Về mặt hiệu quả, một quy trình tín dụng hợp lý sẽ giúp cho ngân hàng nâng cao chất lượng tín dụng và giảm thiểu rủi ro tín dụng.

Về mặt quản lý, quy trình tín dụng có tác dụng:

Làm cơ sở cho việc phân định quyền, trách nhiệm cho các bộ phận trong hoạt động tín dụng.

Làm cơ sở để thiết lập các hồ sơ, thủ tục vay vốn.


3. Một quy trình tín dụng căn bản

Bước 1: Lập hồ sơ vay vốn

Bước này do cán bộ tín dụng thực hiện ngay sau khi tiếp xúc khách hàng.

Nhìn chung một bộ hồ sơ vay vốn cần phải thu thập các thông tin như:

Năng lực pháp lý, năng lực hành vi dân sự của khách hàng

Khả năng sử dụng vốn vay

Khả năng hoàn trả nợ vay (vốn vay + lãi)

Bước 2: Phân tích tín dụng

Phân tích tín dụng là xác định khả năng hiện tại và tương lại của khách hàng trong việc sử dụng vốn vay + hoàn trả nợ vay.

Mục tiêu:

Tìm kiếm những tình huống có thể xảy ra dẫn đến rủi ro cho ngân hàng, dự đoán khả năng khắc phục những rủi ro đó, dự kiến những biện pháp giảm thiểu rủi ro và hạn chế tổn thất cho ngân hàng.

Phân tích tính chân thật của những thông tin đã thu thập được từ phía khách hàng trong bước 1, từ đó nhận xét thái độ, thiện chí của khách hàng làm cơ sở cho việc ra quyết định cho vay.

Bước 3: Ra quyết định tín dụng

Trong khâu này, ngân hàng sẽ ra quyết định đồng ý hoặc từ chối cho vay đối với một hồ sơ vay vốn của khách hàng.

Khi ra quyết định, thường mắc 2 sai lầm cơ bản:

Đồng ý cho vay với một khách hàng không tốt

Từ chối cho vay với một khách hàng tôt.

Cả 2 sai lầm đều ảnh hưởng đến hoạt đông kinh doanh tín dụng, thậm chí sai lầm thứ 2 còn ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng.

Bước 4: Giải ngân

Ở bước này, ngân hàng sẽ tiến hành phát tiền cho khách hàng theo hạn mức tín dụng đã ký kết trong hợp đồng tín dụng.


Nguyên tắc giải ngân: phải gắn liền sự vận động tiền tệ với sự vận động hàng hóa hoặc dịch vụ có liên quan, nhằm kiểm tra mục đích sử dụng vốn vay của khách hàng và đảm bảo khả năng thu nợ. Nhưng đồng thời cũng phải tạo sự thuận lợi, tránh gây phiền hà cho công việc sản xuất kinh doanh của khách hàng.

Bước 5: Giám sát tín dụng

Nhân viên tín dụng thường xuyên kiểm tra việc sử dụng vốn vay thực tế của khách hàng, hiện trạng tài sản đảm bảo, tình hình tài chính của khách hàng,... để đảm bảo khả năng thu nợ.

Bước 6: Thanh lý hợp đồng tín dụng

2.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến quản trị hoạt động tín dụng của NHTM

2.2.3.1. Môi trường kinh tế - xã hội nơi ngân hàng hoạt động

Về môi trường kinh tế, có rất nhiều nhân tố tác động đến hoạt động tín dụng của ngân hàng mà khi hoạch định chính sách cần phải đặc biệt chú ý:

Một là, năng lực về vốn và SX-KD của khách hàng

Một môi trường tốt cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng phải tập trung được nhiều khách hàng cung cấp tiền gửi cho ngân hàng; đồng thời, phải có các khách hàng tiền vay làm ăn tốt để tạo sản phẩm “đầu ra”, giúp ngân hàng có được lợi nhuận từ chênh lệch lãi suất cho vay và huy động. Điều này không phải do ngân hàng mà là do khách hàng và sức khỏe của nền kinh tế quyết định.

Hai là, tốc độ tăng trưởng kinh tế

Điều hiển nhiên là muốn tín dụng tăng trưởng an toàn - bền vững - hiệu quả thì phải có một nền kinh tế tăng trưởng nhanh, hiệu quả và ổn định. Khi nền kinh tế có đà tăng trưởng nhanh, các DN, cá nhân vay vốn để mở rộng SX-KD, đây là giai đoạn các ngân hàng áp dụng chính sách tăng trưởng qui mô dư nợ. Mặt khác, khi các DN phát triển tốt, GDP tăng trưởng nhanh, thu nhập của người lao động cũng sẽ tăng theo. Phần thu nhập tăng thêm họ sẽ gửi tiết kiệm vào ngân hàng để kiếm lời và tích lũy dần mua sắm thêm tài sản. Có thêm thu nhập, nhu cầu tiêu dùng cá nhân tăng lên, khả năng tiêu thụ sản phẩm hàng hóa do DN sản xuất ra sẽ lớn hơn, sẽ tác động trở lại đến việc mở rộng sản xuất, tăng thêm lợi nhuận cho DN. Nhưng khi


nền kinh tế bước vào chu kỳ suy thoái, ngân hàng cần áp dụng chính sách thu hẹp quy mô tín dụng để giảm thiểu rủi ro.

Ba là, các nguồn lực sử dụng trong quá trình SX-KD

Vị trí địa lý, khí hậu, tài nguyên, lao động được các nhà SX-KD hết sức quan tâm. Việc khai thác chúng một cách có hiệu quả sẽ góp phần phát huy được tiềm năng và lợi thế so sánh của từng vùng, tiểu vùng. Đặc biệt đối với sản xuất nông nghiệp, do đặc điểm chịu sự tác động rất lớn của các điều kiện tự nhiên, nên nhân tố này có ảnh hưởng lớn đến việc đầu tư vốn TDNH mà các NHTM phải tính toán để hoạch định quản trị tín dụng cho phù hợp với từng vùng, từng địa phương.

Bốn là, thị trường chi phối quản trị tín dụng

Khi nhu cầu thị trường tăng, các DN và người sản xuất vay vốn mở rộng sản xuất để tìm kiếm lợi nhuận. Ngược lại, khi nhu cầu thị trường giảm, sản xuất bị thu hẹp, nhu cầu tiêu dùng của người lao động giảm, vốn TDNH sẽ giảm nhanh cả về khối lượng và khả năng thu hồi. Trong xu thế toàn cầu hóa về kinh tế, khi xây dựng quản trị tín dụng của mình, các NHTM cần chú ý không chỉ đơn thuần đánh giá thị trường nơi đóng trụ sở hoạt động, mà phải có sự đánh giá, dự báo chính xác cả về nhu cầu thị trường trong nước, trong các khu vực và thị trường thế giới.

Năm là, lạm phát tác động tiêu cực đến quản trị tín dụng NHTM

Một môi trường kinh tế có lạm phát, theo nguyên tắc lãi suất thực bằng lãi suất danh nghĩa trừ tỷ lệ lạm phát, buộc các NHTM phải tăng lãi suất huy động và cho vay. Lãi suất cho vay tăng làm cho khả năng tiếp nhận vốn vay giảm.

Sáu là, yếu tố chính trị - xã hội

Yếu tố chính trị - xã hội có ảnh hưởng đến quản trị tín dụng của NHTM. Điều này là hiển nhiên vì hoạt động kinh tế luôn gắn liền với hoạt động chính trị - xã hội. Kinh tế và chính trị có mối quan hệ biện chứng với nhau. Muốn kinh tế phát triển ổn định, phải có một thể chế chính trị mạnh và ổn định. Đất nước nào, khu vực nào có chính trị ổn định, trật tự xã hội duy trì tốt, kinh tế sẽ phát triển. Kinh tế phát triển tốt sẽ góp phần ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội. Ngược lại, khi chính trị -


xã hội bất ổn, sẽ kìm hãm sự phát triển kinh tế; khi nền kinh tế suy thoái sẽ dẫn đến khủng hoảng chính trị và trật tự xã hội sẽ có diễn biến phức tạp.

2.2.3.2. Khả năng sinh lợi và rủi ro của các khoản cho vay khác nhau

Lợi nhuận là mục tiêu mà quản trị tín dụng NHTM hướng tới. Nhưng việc tìm kiếm các dự án có lợi nhuận cao thường tiềm ẩn rủi ro không thu được nợ. Bởi vậy, quản trị tín dụng phải được xây dựng trên cơ sở lựa chọn phương án tối ưu giữa lợi nhuận có thể có được và rủi ro có thể chấp nhận được.

Trên thực tế, mục tiêu lợi nhuận giữa các NHTM có sự khác nhau. Đối với ngân hàng có khách hàng vay đông, thị phần tín dụng lớn, họ thiên về mục tiêu lợi nhuận hơn khi hoạch định chính sách cho vay. Những ngân hàng mới thành lập, ngân hàng qui mô dư nợ nhỏ, mục tiêu của họ là tìm kiếm khách hàng, mở rộng thị phần tín dụng; mục tiêu lợi nhuận trong ngắn hạn không là quan trọng nhất, họ theo đuổi chính sách mở rộng tín dụng.

2.2.3.3. Chính sách tài chính, tiền tệ và quản trị tín dụng của Nhà nước

Quản trị tín dụng của NHTM chịu ảnh hưởng bởi quản trị tín dụng của nhà nước cả về khách quan và chủ quan. Về khách quan, khi nhà nước có chính sách khuyến khích phát triển một ngành, một lĩnh vực, khu vực kinh tế nào đó, nhà nước sẽ sử dụng các công cụ về tiền tệ - tín dụng như giảm tỷ lệ dư trữ bắt buộc của các NHTM đối với nguồn vốn huy động để đầu tư cho khu vực kinh tế đó, cho các NHTM vay vốn phát triển tín dụng ưu đãi, vốn ODA của các tổ chức quốc tế với lãi suất thấp… Đặc biệt, nhà nước tạo hành lang pháp lý thuận lợi để bảo vệ cho hoạt động tín dụng của NHTM đối với khu vực được khuyến khích phát triển. Do vậy, khả năng sinh lợi của NHTM có thể cao hơn khi hướng đầu tư vốn tín dụng vào khu vực này hoặc cũng có thể gặp rủi ro khi các định hướng tính khả thi thấp, chẳng hạn định hướng cho chương trình cho vay “đánh bắt xa bờ” trong những năm trước đây. Về chủ quan, hoạt động tín dụng của NHTM phải tuân thủ mục tiêu chung của quản trị tín dụng quốc gia, vì vậy, buộc NHTM phải điều chỉnh quản trị tín dụng của mình cho phù hợp với chính sách chung của nhà nước. Để đạt được mục tiêu của mình, nhà nước sử dụng mệnh lệnh hành chính để buộc các TCTD, đặc biệt là


các TCTD của nhà nước phải ưu tiên tập trung vốn đầu tư, hoặc rút vốn khỏi đối tượng cần điều chỉnh.

Nước ta từ nền kinh tế tập trung kế hoạch hóa sang nền kinh tế thị trường, vì vậy, mệnh lệnh hành chính trong quản lý kinh tế vẫn được Nhà nước sử dụng khá nhiều trong thời gian qua. Khi nền kinh tế chuyển hẳn sang nền kinh tế thị trường, các hoạt động kinh tế được luật hóa rõ ràng thì tính mệnh lệnh hành chính của Nhà nước sẽ giảm dần. Chính sách tài chính, tiền tệ của nhà nước cũng ảnh hưởng lớn đến quản trị tín dụng của NHTM theo cơ chế tương tự. Hiện nay, nhà nước áp dụng chính sách thắt chặt tiền tệ để chống lạm phát. Việc các NHTM phải mua tín phiếu ngân hàng với khối lượng lớn, phải dự trữ bắt buộc lớn… đã buộc họ phải thu hẹp quy mô tín dụng và tăng lãi suất cho vay.

2.2.3.4. Chất lượng cán bộ và cơ cấu tổ chức mạng lưới của ngân hàng

Con người là yếu tố quyết định đến thành công hay thất bại của một ngân hàng. Yếu tố con người gồm các mặt: số lượng, trình độ chuyên môn, kinh nghiệm nghề nghiệp, cơ cấu nhân sự, phẩm chất đạo đức, năng lực quản lý và tác nghiệp.

Muốn có hoạt động kinh doanh ngân hàng tốt, trước hết phải có đội ngũ cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý giỏi, giàu kinh nghiệm, năng động, phẩm chất đạo đức tốt. Mặt khác phải có đội ngũ cán bộ tác nghiệp giỏi nghiệp vụ, hiểu biết rộng về pháp luật, tinh thần trách nhiệm cao với công việc, phẩm chất đạo đức nghề nghiệp tốt, đặc biệt là phải am hiểu và có kinh nghiệm về lĩnh vực tín dụng mà mình quản lý. Một CBTD chuyên quản các DN sản xuất nông nghiệp hay hộ sản xuất muốn chuyển sang quản lý các DN hoạt động trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp hay dịch vụ đô thị, thì cần phải có thời gian mới có thể thích nghi và tích lũy kinh nghiệm, điều mà một NHTM muốn chuyển từ cho vay khu vực nông thôn về đô thị phải lưu ý khi hoạch định quản trị tín dụng.

Đạo đức nghề nghiệp ảnh hưởng đến quản trị tín dụng của NHTM. Thực tế cho thấy rằng, phần lớn các sai phạm nổi cộm trong hoạt động ngân hàng những năm qua là do đạo đức nghề nghiệp, những người được giao nhiệm vụ đã đặt lợi ích cá nhân lên trên lợi ích của ngân hàng.


2.2.3.5. Công nghệ ngân hàng

Một ngân hàng có trang thiết bị, phương tiện làm việc tiên tiến sẽ phục vụ kịp thời yêu cầu về tiền gửi, cho vay và các hoạt động dịch vụ khác, nâng cao uy tín đối với khách hàng. Đồng thời, giúp cho các cấp quản lý của ngân hàng có những thông tin kịp thời về tình hình hoạt động tín dụng để có những điều chỉnh cho phù hợp.

Công nghệ tin học cho phép ngân hàng xử lý kịp thời và chính xác thông tin về về tài chính, quan hệ tín dụng, bảo đảm tiền vay, tình hình hoạt động, thông tin pháp lý... của khách hàng. Nhờ có công nghệ thông tin hiện đại mà người quản lý có thể đưa ra những quyết định cần thiết về cho vay, quản lý, theo dõi và áp dụng các chế tài tín dụng phù hợp. Thông tin càng đầy đủ, kịp thời, chính xác và toàn diện thì khả năng phòng ngừa rủi ro trong hoạt động tín dụng càng lớn, chất lượng tín dụng càng được nâng cao. Khoa học công nghệ càng phát triển nhanh thì trang thiết bị, phương tiện càng phải được quan tâm và không ngừng đổi mới để đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý TDNH.

Tóm lại, khi nghiên cứu về quản trị TDNH, cần phải nắm được những nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động của nó. Tùy theo điều kiện phát triển KT-XH, mức độ hoàn thiện môi trường pháp lý của từng nước; tùy theo bộ máy quản lý tổ chức, khả năng cơ sở vật chất kỹ thuật, trình độ, chất lượng cán bộ của mỗi NHTM mà các nhân tố này có mức độ ảnh hưởng khác nhau tới quản trị tín dụng. Nói cách khác, ở mỗi hoàn cảnh lịch sử cụ thể, mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến quản trị tín dụng có sự khác nhau. Vấn đề đặt ra là chúng ta phải biết vận dụng sáng tạo ảnh hưởng của các nhân tố tích cực, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của các nhân tố để nâng cao việc hoạch định và tổ chức thực hiện quản trị TDNH.

2.2.4. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả quản trị hoạt động tín dụng của NHTM

2.2.4.1. Đánh giá hiệu quả quản trị TDNH thông qua kết quả hoạt động tín dụng của NHTM

Một là, đánh giá mục tiêu mở rộng huy động vốn và đầu tư tín dụng

Có nhiều chỉ tiêu đánh giá, dưới đây là một số chỉ tiêu chủ yếu:

Chỉ tiêu 1: Quy mô và tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động

Xem tất cả 224 trang.

Ngày đăng: 01/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí