Vốn tự có (vốn chủ sở hữu) lớn tạo điều kiện cho ngân hàng tăng cơ sở vật chất như: mở rộng mạng lưới hoạt động, mua sắm phương tiện, máy móc, thiết bị hiện đại phục vụ cho quá trình kinh doanh, đầu tư cổ phiếu; đồng thời, cũng tăng thêm khả năng huy động vốn, tăng khách hàng vay vốn. Nếu vốn chủ sở hữu lớn, ngân hàng có thể theo đuổi quản trị tín dụng mạo hiểm, nghiêng về tìm kiếm lợi nhuận. Vốn tự có của NHTM còn đóng vai trò như là “người bảo vệ” tin cậy của người gửi tiền. Ngân hàng có vốn tự có lớn giúp cho người gửi tiền có độ tin cậy cao khi gửi tiền, qua đó ngân hàng có thể huy động được nhiều tiền gửi hơn. Trường hợp có rủi ro, ngân hàng bị thua lỗ thì vốn tự có bù đắp cho các khoản lỗ trước khi tổn thất của các khoản tiền gửi. Vốn tự có ý nghĩa quyết định đến qui mô tài sản nói chung, qui mô tín dụng nói riêng của NHTM. Bởi vì, một trong những tỷ lệ an toàn mà các NHTM phải duy trì là tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu. Theo chuẩn mực chung của thế giới, các NHTM phải duy trì tỷ lệ tối thiểu 8% giữa vốn tự có so với tổng tài sản “Có” rủi ro. Điều này có nghĩa tổng tài sản có của một NHTM sau khi đã qui đổi theo tỷ lệ rủi ro, không được vượt 12,5 lần vốn tự có của nó.
Nguồn vốn huy động và vốn đi vay thể hiện trình độ quản lý, quy mô hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Đây là nguồn vốn chính và chủ yếu để đem lại lợi nhuận cho ngân hàng. Qui mô, kết cấu, tính ổn định của các khoản tiền gửi, khả năng vay mượn của ngân hàng có ảnh hưởng rất lớn đến quản trị tín dụng. Nếu nguồn tiền gửi của dân cư lớn và ổn định, cơ cấu các khoản tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn lớn, cho phép ngân hàng có thể gia tăng các khoản tín dụng trung và dài hạn với lãi suất cho vay cao hơn so với các khoản cho vay ngắn hạn. Nếu cơ cấu các khoản tiền gửi thanh toán lớn trong tổng nguồn vốn huy động, chỉ cho phép ngân hàng theo đuổi chính sách cho vay ngắn hạn là chủ yếu. Đồng thời, NHTM phải tăng lượng tiền dự trữ thanh toán để giảm thiểu rủi ro thanh khoản.
Tuy nhiên để tăng khả năng huy động vốn, một trong những điều quan trọng là phải tăng vốn tự có của ngân hàng, bởi vốn huy động của một NHTM thường được phép gấp 20 lần so với vốn tự có của ngân hàng.
Từ những đề cập trên cho thấy, quản trị nguồn vốn của NHTM phải giải quyết để bảo đảm vốn tự có, nguồn vốn huy động tăng nhanh và bền vững nhằm hậu thuẫn cho việc sử dụng vốn của ngân hàng.
2.2.2.2. Chính sách khách hàng vay và lĩnh vực đầu tư tín dụng của NHTM
Nhiều tài liệu nghiên cứu chưa đề cập khách hàng vay là nội dung của quản trị tín dụng của NHTM nhưng lại xem khách hàng như là tôn chỉ mà quản trị tín dụng NHTM hướng tới, là một chiến lược tín dụng của ngân hàng: “Đứng về mặt chiến lược mà nói, một quản trị tín dụng phải thu hút được khách hàng, duy trì và phát triển được khách hàng để mở rộng qui mô hoạt động của NHTM” .
Khách hàng là một nội dung cơ bản của quản trị tín dụng. Bởi vì, có xác định được đối tượng khách hàng thì mới có cơ sở để xác định các nội dung còn lại của quản trị tín dụng. Rõ ràng, nhu cầu về vốn, điều kiện vay, thời hạn vay, khả năng sinh lời, đảm bảo tiền vay, rủi ro tín dụng là những nội dung của quản trị tín dụng đối với khách hàng nói chung và từng đối tượng khách hàng cụ thể.
Quản trị tín dụng phải trả lời được câu hỏi đối tượng khách hàng là ai, khả năng của khách hàng như thế nào đối với sự an toàn và hiệu quả của khoản tín dụng, do vậy, khách hàng vay là một nội dung cơ bản của quản trị tín dụng của NHTM.
Có thể bạn quan tâm!
- Quản trị hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại tại Lào - 2
- Vấn Đề Đặt Ra Là Những Câu Hỏi, Giả Thuyết Và Những Lập Luận Cơ Bản Về Ý Nghĩa Của Đề Tài Nghiên Cứu
- Tổng Quan Về Quản Trị Hoạt Động Tín Dụng Của Nhtm
- Chính Sách Nhận Biết Và Quản Lý Nợ Có Vấn Đề
- Đánh Giá Hiệu Quả Quản Trị Tín Dụng Của Nhtm Đối Với Khách Hàng Vay Vốn.
- Quản trị hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại tại Lào - 8
Xem toàn bộ 224 trang tài liệu này.
Khách hàng nhận vốn TDNH rất đa dạng, từ các DN lớn, DN vừa và nhỏ, hộ gia đình, cá nhân, đến các hợp tác xã, các tổ chức xã hội ngh nghiệp. Trong đó, nhóm khách hàng lớn nhất và cơ bản nhất mà quản trị tín dụng hiện nay phải hướng tới là các DN vừa và nhỏ và các khách hàng lẻ khác.
Việc phân loại xác định rõ chất lượng khách hàng là cơ sở quan trọng để xác định lĩnh vực đầu tư tín dụng của NHTM. Đó cũng chính là cơ sở để xác định cơ cấu, đầu tư tín dụng của ngân hàng. Sự tương tác giữa xác định chính sách khách hàng vay và đầu tư của ngân hàng là một trong những nội dung quan trọng trong quản trị TDNH.
2.2.2.3. Điều kiện vay vốn
Quản trị tín dụng phải thể hiện được các nguyên tắc phù hợp với bản chất tín dụng, đó là: sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng; hoàn trả nợ gốc và lãi vốn vay đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng.
Để bảo đảm nguyên tắc vay vốn, khách hàng phải thỏa mãn một số điều kiện nhất định, đó là: (1) có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo qui định của pháp luật; (2) mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp; (3) có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết; (4) có dự án đầu tư, phương án SX-KD, dịch vụ khả thi và có hiệu quả; hoặc có dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống khả thi và phù hợp qui định của pháp luật; (5) thực hiện các qui định về bảo đảm tiền vay theo qui định của luật.
Năm điều kiện vay vốn này được phần lớn các ngân hàng trên thế giới áp dụng, tuy nhiên việc vận dụng và mức độ linh hoạt của các điều kiện là khác nhau đối với mỗi quốc gia.
Khách hàng vay vốn là hộ sản xuất ở nông thôn, các DN nhỏ và vừa, DN sản xuất hàng xuất khẩu thường được hưởng các điều kiện ưu đãi. Để hỗ trợ các đối tượng khách hàng đó, Chính phủ các nước thường áp dụng các điều kiện ưu đãi về vốn, thời gian vay, lãi suất và các ưu đãi phi tín dụng để khả năng thành công trong thực hiện dự án vay vốn được nâng cao. Điều đó cho thấy quản trị điều kiện vay vốn là một trong những nội dung quan trọng đối với quản trị tín dụng của NHTM.
2.2.2.4. Giới hạn tín dụng
NHTM không thể tài trợ toàn bộ nhu cầu vay vốn thực hiện dự án của khách hàng nhằm hạn chế rủi ro. Quản trị tín dụng của NHTM xây dựng phải không được vượt quá giới hạn về tín dụng do pháp luật qui định. Các qui định thường là: (1) mức cho vay tối đa đối với một khách hàng vay vốn; (2) mức cho vay tối đa so với giá trị tài sản thế chấp; (3) mức cho vay tối đa đối với nhóm khách hàng hạn chế tín dụng; (4) tỷ lệ tối đa sử dụng nguồn vốn huy động ngắn hạn cho vay trung dài hạn.
Ngoài các giới hạn do luật định, mỗi NHTM có qui định riêng về qui mô và các giới hạn. Các giới hạn tín dụng được thể hiện trong quản trị tín dụng của NHTM
là: mức cho vay tối đa đối với một dự án vay vốn, quyền phán quyết cho vay tối đa của giám đốc khu vực hoặc chi nhánh; mức cho vay tối đa so với giá trị tài sản bảo đảm tiền vay; qui mô cho vay tối đa đối với từng khách hàng, từng ngành nghề.Qui mô tối đa phải đảm bảo kết hợp tính sinh lời với mức rủi ro có thể chấp nhận của từng khoản cho vay, từng nhóm khách hàng, từng ngành hàng.
Qui mô và giới hạn tín dụng của NHTM còn được xác định ở cơ cấu toàn bộ dư nợ tín dụng trong tổng tài sản có của ngân hàng. Xét theo tính thanh khoản thì khả năng thanh khoản trong tổng tài sản có của một NHTM theo mức độ giảm dần là: tiền mặt, trái phiếu chính phủ, chứng khoán, các khoản đầu tư tín dụng, các khoản đầu tư kinh doanh bất động sản. Điều này cũng có nghĩa là khả năng rủi ro về thanh khoản của các khoản đầu tư tín dụng cao so với tiền mặt, trái phiếu chính phủ... Tuy nhiên các NHTM không đầu tư hết vào các tài sản có có rủi ro thanh khoản thấp hơn vì mức độ sinh lời của các khoản đầu tư này thấp hơn nhiều so với các khoản đầu tư tín dụng nên khó có khả năng bù đắp chi phí để có lợi nhuận cho ngân hàng. Do đó quản trị tín dụng của NHTM phải xác định được tỷ lệ phần trăm của DNTD trong tổng tài sản có để bảo đảm cân đối giữa khả năng sinh lời và an toàn trong hoạt động ngân hàng.
Trong tổng DNTD lại phải bảo đảm tỷ lệ hợp lý giữa các khoản cho vay ngắn hạn và các khoản đầu tư trung, dài hạn. Tỷ lệ này phụ thuộc vào nhiều yếu tố như qui mô vốn tự có, cơ cấu các khoản nguồn vốn huy động được, tính ổn định của khách hàng vay và của nền kinh tế, khả năng tài chính của khách hàng vay, chính sách tiền tệ của NHNN. Điều đó cho thấy quản trị giới hạn tín dụng là một trong những nội dung quan trọng của NHTM.
2.2.2.5. Quản trị mạng lưới NHTM
Mạng lưới hoạt động của mỗi NHTM thường nhiều cấp, cấp Trung ương và chi nhánh thường đóng ở các trung tâm đô thị lớn, thành phố và thị xã trực thuộc tỉnh, tiếp đến là các phòng giao dịch. Công nghệ ngân hàng càng phát triển thì các cấp trung gian có xu hướng giảm dần.
Về mặt pháp lý, người đứng đầu NHTM tại hội sở chính ở Trung ương mới đủ tư cách ký hợp đồng tín dụng với tư cách là người đại diện pháp nhân, người đứng đầu các chi nhánh cấp dưới và một số người khác chỉ ký cho vay theo các văn bản ủy quyền, tức là chỉ được phân cấp phán quyết tín dụng. Sự phân cấp phán quyết được qui định cụ thể trong quản trị tín dụng của NHTM.
Do vậy quản trị mạng lưới đối với NHTM cũng là khía cạnh quan trọng trong quản trị tín dụng của NHTM.
2.2.2.6. Lãi suất và phí vay vốn
Mục tiêu chủ yếu của NHTM là lợi nhuận, nội dung của quản trị tín dụng của NHTM phải xác định dựa trên mục tiêu này. Lãi suất cho vay phải được hình thành theo cơ chế thị trường dựa trên quan hệ cung cầu vốn trên thị trường và theo nguyên tắc trang trải chi phí huy động vốn, chi phí quản lý, chi phí tiền lương, bù đắp rủi ro và lợi nhuận hợp lý.
Ngân hàng có các mức lãi suất tín dụng khác nhau tùy theo kỳ hạn, tùy theo các loại tiền và tùy theo loại khách hàng. Khách hàng vay lớn, có uy tín, có tài sản bảo đảm tiền vay, ngân hàng cho vay với mức lãi suất thấp hơn mức lãi suất cho vay bình quân chung. Ngược lại, khách hàng vay nhỏ lẻ, uy tín với ngân hàng thường không có bảo đảm tiền vay... phải vay với mức lãi suất cho vay cao hơn mức lãi suất cho vay bình quân. Vay trung dài hạn lãi suất cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn. Cho vay theo kỳ hạn trả nợ gốc và lãi theo tháng sẽ được ưu tiên về lãi suất hơn so với cho vay theo kỳ hạn trả gốc lãi theo quý, theo năm... Tóm lại, các khoản vay có độ rủi ro và chi phí quản lý cao thì có mức lãi suất cho vay theo thỏa thuận cao và ngược lại.
Để có được các cam kết tín dụng, khách hàng phải trả cho ngân hàng một khoản phí tín dụng được tính bằng tỷ lệ phần trăm trên hạn mức cam kết, gọi là phí suất tín dụng. Phí tín dụng có thể là phí bảo lãnh, phí cam kết, phí quản lý. Phí suất được xác định chủ yếu dựa trên: chi phí huy động vốn, nếu là cam kết tài trợ, cam kết tín dụng dự phòng; dựa trên rủi ro, nếu là cam kết bảo lãnh tín dụng; các chi phí khác như phí xác nhận, phí quản lý tài sản bảo đảm, phí cơ cấu lại thời hạn trả nợ...
Câu hỏi đặt ra là ngoài các loại phí mang tính chất truyền thống và đã được luận giải, tại sao phải trả phí cơ cấu lại thời hạn trả nợ. Bởi vì, khi khách hàng cơ cấu lại thời hạn trả nợ, ngân hàng phải trả tiền cho việc huy động các nguồn vốn thiếu hụt mà lẽ ra ngân hàng đã có được do người vay trả nợ để tài trợ cho các dự án cho vay đã cam kết. Ngoài ra, khi khách hàng cơ cấu lại thời hạn trả nợ, ngân hàng phải trích một khoản dự phòng cho rủi ro tín dụng do khách hàng không trả nợ đúng hạn.
Do vậy quản trị lãi suất và phí vay vốn cũng là nội dung quan trọng trong quản trị tín dụng của NHTM.
2.2.2.7. Thời hạn cho vay và kỳ hạn trả nợ
Thời hạn cho vay là khoảng thời gian được tính từ khi khách hàng bắt đầu nhận vốn vay cho đến thời điểm trả hết nợ gốc và lãi vốn vay đã được thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Thời hạn cho vay được chia thành 3 loại: ngắn, trung và dài hạn.
Cho vay ngắn hạn là loại cho vay có thời hạn đến 12 tháng. Đối tượng cho vay ngắn hạn là để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các DN và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân.
Cho vay trung hạn thường có thời hạn từ trên 12 tháng đến 60 tháng và cho vay dài hạn là những khoản cho vay có thời hạn từ trên 60 tháng trở lên. Một số nước trên thế giới, cho vay trung hạn là các khoản cho vay có thời hạn từ trên 12 tháng đến 7 năm, trên mức đó là cho vay dài hạn. Đối tượng cho vay trung hạn chủ yếu để mua sắm tài sản cố định, đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng SX-KD, đầu tư mới các dự án vừa và nhỏ có thời gian thu hồi vốn nhanh. Cho vay dài hạn là để xây dựng nhà ở, các trang thiết bị, phương tiện vận tải có qui mô lớn, thành lập các DN mới, thực hiện các dự án có qui mô lớn và thời gian thu hồi vốn lâu, trồng các loại cây lâu năm...
Kỳ hạn trả nợ là khoảng thời gian trong thời hạn cho vay đã được thỏa thuận giữa TCTD và khách hàng mà tại mỗi cuối khoảng thời gian đó khách hàng phải trả một phần hoặc toàn bộ vốn vay cho TCTD.
Thời hạn cho vay và kỳ hạn trả nợ được các ngân hàng cho vay quan tâm, vì kỳ hạn liên quan đến thanh khoản và rủi ro ngân hàng cũng như chu kỳ kinh doanh của người vay.Thời hạn cho vay càng ngắn, rủi ro của ngân hàng càng thấp, tính thanh khoản của ngân hàng và các khoản tài trợ càng cao. Ngân hàng căn cứ vào kỳ hạn của loại nguồn vốn mà ngân hàng có được và nguồn thu của khách hàng có thể dùng trả nợ để quyết định thời hạn cho vay và kỳ hạn trả nợ. Việc hoán chuyển kỳ hạn nguồn vốn sẽ tiềm ẩn rủi ro thanh khoản và rủi ro lãi suất bởi vì nó tạo ra khe hở lãi suất và thanh khoản. Việc tăng số lần trả nợ trong kỳ sẽ tăng mật độ luồng tiền vào, giảm kỳ hạn tín dụng trung bình, song sẽ tăng chi phí thu nợ của ngân hàng.
Từ đó cho thấy rằng quản trị thời hạn cho vay và kì hạn trả nợ cũng là một trong những nội dung quan trọng đối với quản trị tín dụng của NHTM.
2.2.2.8. Phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro tín dụng
Chính sách phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro tín dụng là một bộ phận cấu thành quản trị tín dụng của NHTM. Theo chuẩn mực quốc tế IAS-39 về giám sát các khoản vay, nợ của khách hàng tín dụng được phân thành 5 nhóm. Nhóm 1 (nợ đủ tiêu chuẩn): các khoản nợ được TCTD đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn; nhóm 2 (nợ cần chú ý): các khoản nợ được TCTD đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi nhưng có dấu hiệu khách hàng suy giảm khả năng trả nợ; nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn): các khoản nợ được TCTD đánh giá là không khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi khi đến hạn, các khoản nợ này được TCTD đánh giá là có khả năng tổn thất một phần gốc và lãi; nhóm 4 (nợ nghi ngờ): các khoản nợ được TCTD đánh giá là có khả năng tổn thất cao; nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn): các khoản nợ được TCTD đánh giá là không còn khả năng thu hồi, mất vốn.
Việc phân nhóm nợ được dựa trên hai yếu tố định lượng và định tính. Yếu tố định lượng để làm căn cứ phân loại nhóm nợ là nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ, NQH. Yếu tố định tính gồm rất nhiều tiêu chí để làm căn cứ xem xét, bao gồm các tiêu chí về quá khứ (lịch sử), hiện tại và tương lai (triển vọng) của khách hàng. Do đó, muốn
phân loại chính xác nhóm nợ phải căn cứ nhiều vào các tiêu chí về định tính. Nhưng cơ sở để xác định các yếu tố định tính rất phức tạp có tính nhạy cảm cao, các TCTD thường gặp khó khăn trong việc “lượng hóa các yếu tố định tính” để có cơ sở phân loại nợ chính xác. Muốn vậy các TCTD phải có hệ thống chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng nội bộ để khắc phục khó khăn này.
Nhìn chung, các tiêu thức để làm căn cứ xếp hạng khách hàng tín dụng nội bộ giữa các ngân hàng không có sự khác biệt nhau nhiều và thường được phân thành 10 hạng theo thứ tự độ tin cậy của ngân hàng đối với khách hàng giảm dần là: AAA, AA, A, BBB, BB, B, CCC, CC, C, D. Theo thông lệ quốc tế, khách hàng được xếp vào các hạng AAA, AA, A được phân vào nợ nhóm 1 ; khách hàng xếp vào các hạng BBB, BB, BB được phân vào nợ nhóm 2; khách hàng xếp hạng CCC và CC được xếp vào nợ nhóm 3; khách hàng hạng C được xếp nợ nhóm 4; khách hàng hạng D được xếp vào nợ nhóm 5.
Điều đó cho thấy phân loại nợ và trích lập phòng ngừa rủi ro là rất phức tạp. Do đó, để quản trị tín dụng có hiệu quả các NHTM phải chú trọng đối với nội dung này.
2.2.2.9. Bảo đảm tiền vay
Hoạt động cho vay của ngân hàng luôn gắn liền với nguy cơ xảy ra rủi ro không thu được nợ. Quản trị tín dụng của ngân hàng đưa ra phải bảo đảm hạn chế rủi ro, tăng độ an toàn của các khoản cho vay. Một trong những giải pháp để đạt yêu cầu này là chính sách đảm bảo tiền vay. Chính sách bảo đảm tiền vay gồm hai nội dung cơ bản: chính sách áp dụng bảo đảm tiền vay đối với nhóm, loại khách hàng vay và chính sách xem xét nhận các loại tài sản làm bảo đảm.
Ngân hàng cho vay dựa trên uy tín của khách hàng. Mức độ uy tín của từng khách hàng có sự khác nhau. Để đánh giá chính xác mức độ tin cậy của khách hàng, các NHTM xây dựng hệ thống chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng nội bộ. Trường hợp khách hàng truyền thống, có uy tín, có kết quả xếp hạng từ hạng A trở lên, được ngân hàng xem xét cho vay không áp dụng biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản. Trong trường hợp độ tin cậy của người vay không cao, ngân hàng áp