trong môi trường vĩ mô. Và cũng vì tính đánh đổi rủi ro trong tín dụng, rủi ro thấp được trả giá bằng mức lãi suất thấp hơn so với các loại tín dụng trung và dài hạn.
+ Loại hai: tín dụng trung và dài hạn
Tín dụng trung và dài hạn là loại tín dụng có thời hạn vay trả dài hạn - thường là trên một năm, dùng để cấp vốn cho các đối tượng đầu tư dài hạn, như xây dựng DN mới, các công trình thuộc cơ sở hạ tầng, đường giao thông, bến cảng, sân bay,.. cải tiến mở rộng với qui mô lớn. Nhìn chung tín dụng trung và dài hạn đầu tư để hình thành tài sản cố định. Do tính thời gian dài, lượng vốn cho vay lớn nên tính rủi ro khá cao, xét gộp cả rủi ro cá biệt và rủi ro hệ thống.
Hai là, vai trò của tín dụng NHTM trong nền kinh tế
Tín dụng là công cụ đòn bẩy góp phần tăng trưởng kinh tế và điều tiết nền kinh tế
Không thể tăng trưởng kinh tế nếu hệ số mức đầu tư cần có không đạt mức tương ứng. Đối với Lào và nhiều nước có nền kinh tế kém phát triển, việc thực hiện được hệ số mức đầu tư hiện đang là một trở ngại lớn. Ở những nước có tốc độ tăng trưởng 7% - 8%/năm thì tỷ suất đầu tư là 30% của tổng GDP. Như vậy, để đạt được mức tăng trưởng 1 %/năm thì tỷ suất đầu tư phải là 4% của tổng GDP. Tỷ lệ đầu tư GDP so với mức tăng trưởng của GDP được gọi là “tỷ suất vốn sản phẩm gia tăng” (incremental capital output ratio – ICOR).
- TDNH góp phần giảm hệ số tiền nhàn rỗi và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong tất cả các thành phần kinh tế thông qua “đi vay để cho vay”.
- TDNH còn là đòn bẩy kinh tế quan trọng thúc đẩy quá trình mở rộng giao lưu kinh tế quốc tế.
- TDNH cũng góp phần tích cực vào việc hình thành và phát triển về mặt vốn của công ty cổ phần.
Có thể bạn quan tâm!
- Quản trị hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại tại Lào - 1
- Quản trị hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại tại Lào - 2
- Vấn Đề Đặt Ra Là Những Câu Hỏi, Giả Thuyết Và Những Lập Luận Cơ Bản Về Ý Nghĩa Của Đề Tài Nghiên Cứu
- Chính Sách Khách Hàng Vay Và Lĩnh Vực Đầu Tư Tín Dụng Của Nhtm
- Chính Sách Nhận Biết Và Quản Lý Nợ Có Vấn Đề
- Đánh Giá Hiệu Quả Quản Trị Tín Dụng Của Nhtm Đối Với Khách Hàng Vay Vốn.
Xem toàn bộ 224 trang tài liệu này.
- Thông qua hoạt động tín dụng, ngân hàng làm biến đổi điều kiện SX-KD dịch vụ của các chủ thể kinh tế theo hướng tối ưu, góp phần làm cho chu kỳ vận động của tiền tệ rút ngắn về thời gian, nâng cao vòng quay của tiền tệ.
- TDNH góp phần chống lạm phát tiền tệ.
Tín dụng là động lực góp phần hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theohướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
- Với tư cách là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, tín dụng trở thành động lực kích thích các tổ chức kinh tế, các DN và dân cư trong các thành phần kinh tế thực hiện tiết kiệm, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn tiền tệ tạm thời chưa sử dụng hiện đang nằm phân tán ở khắp mọi nơi, tiến hành đầu tư cho vay để hình thành cơ cấu kinh tế ở Lào.
- Nhà nước có thể tập trung vốn tín dụng thông qua ngân hàng để đầu tư phát triển nông nghiệp, thông qua công nghiệp hóa, hiện đại hóa biến nền nông nghiệp lạc hậu tự cấp, tự túc thành nền nông nghiệp hàng hóa dựa trên cơ sở vật chất hiện đại.
- Thông qua nguyên tắc cơ bản của tín dụng là cho vay trên cơ sở hoàn trả vốn và có lãi để các DN, các ngành kinh tế, các vùng kinh tế và các thành phần kinh tế sử dụng vốn có hiệu quả, tránh được những thất thoát vốn đầu tư trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta.
Góp phần tài trợ cho quá trình tái sản xuất, mở rộng và tăng cường tài sản cố
định
Trong điều kiện sản xuất nhỏ, khi mà các kênh tài trợ vốn cho nền kinh tế như
ngân sách, vốn tự tích lũy còn những hạn chế nhất định thì tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng cho các DN còn có ý nghĩa là nuôi dưỡng thị trường tín dụng cho ngân hàng mở rộng tín dụng ngắn hạn và các dịch vụ ngân hàng khác.
Nhu cầu về tín dụng trung và dài hạn trong thực tế tập trung từ các khách hàng DN là chủ yếu. Họ tạo lập mối quan hệ tín dụng đối với ngân hàng dưới hình thức này nhằm tiến hành các hoạt động đầu tư chiều sâu hoặc mở rộng khả năng SXKD thông qua việc đầu tư vào tài sản cố định. Đối với DN, tài sản cố định là tư liệu sản xuất chủ yếu, chiếm bộ phận lớn trong tổng giá thành, là yếu tố quan trọng quyết định lợi thế cạnh tranh… Do đó, việc coi trọng tài sản cố định là rất cần thiết, là một áp lực đối với sự tồn tại và phát triển của một DN.
Tuy nhiên, trong thực tế, giá trị tài sản cố định thường cao, nó đòi hỏi các doanh nghiệp phải tiến hành tích lũy trong khoảng thời gian khá dài mới có đủ khả năng về tài chính. Khó khăn về sự thiếu hụt tạm thời vốn cố định này của DN có thể được tài trợ bởi các nguồn vốn khác, nhưng TDNH trung và dài hạn là một trong những nguồn vốn tốt nhất.
Thông qua tín dụng trung và dài hạn, NHTM đã giúp các DN mở rộng cơ sở sản xuất – kinh doanh, mua sắm máy móc thiết bị… nâng cao giá trị sản lượng, trang bị mới thiết bị cơ sở vật chất có tính năng hiện đại, nâng cao chất lượng sản phẩm và năng suất lao động… Góp phần quan trọng giúp DN đạt được mục tiêu kinh doanh: lợi nhuận, an toàn và phát triển không ngừng.
Tạo điều kiện ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật
Ngày nay, khi mà khoa học kỹ thuật đã đạt được những thành tựu rực rỡ, đặc biệt là những thành tựu trong các ngành khoa học ứng dụng đã tạo thời cơ và cũng là thách thức đối với sự tồn tại và phát triển của một tổ chức kinh tế trên thị trường.
Tuy việc ứng dụng này là cần thiết, song mọi DN đều gặp phải rào cản lớn đó là chi phí bỏ ra ban đầu rất lớn, bản thân vốn tự có của DN không thể đáp ứng được. Trong hoàn cảnh đó, TDNH, đặc biệt là tín dụng trung và dài hạn đã có những tác động hỗ trợ tích cực trong việc ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào hoạt động SX-KD. Từ đó DN không ngừng nâng cao được vị thế trên thị trường, hiệu quả của DN – qua đó nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng của NHTM.
Góp phần thúc đẩy các DN nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
Trong thời hạn của khoản vay, ngân hàng thực hiện chức năng giám sát hoạt động sử dụng vốn với tư cách là chủ sở hữu vốn cho vay đối với các DN. Ngân hàng căn cứ vào các nguyên tắc tín dụng, hướng các DN sử dụng vốn đúng mục đích có hiệu quả, đôn đốc DN vay vốn trả gốc và lãi đúng thời hạn thỏa thuận đã ký trong hợp đồng tín dụng. Khác với vốn tự có là không phải trả chi phí vốn, vốn vay ngân hàng phải chịu những điều kiện ràng buộc về lãi suất, thời hạn và mục đích sử dụng tiền vay nên các DN vay vốn phải có sự tính toán chi phí sản xuất hợp lý, tốc độ vòng quay vốn nhanh… để đảm bảo trả nợ ngân hàng đúng hạn và có lợi nhuận
giữ lại. Mặt khác, trong quá trình kiểm tra, giám sát sử dụng vốn vay, ngân hàng sẽ giúp DN phát hiện những nhược điểm, sai sót từ đó có biện pháp khắc phục kịp thời nhằm hạn chế rủi ro có thể xảy ra đối với DN cũng như rủi ro có liên quan đối với NHTM.
Có thể nói rằng, TDNH đã ràng buộc trách nhiệm giữa người cho vay và người sử dụng vốn vay, từ đó nâng cao năng lực quản lý vốn và quá trình SX-KD, giúp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
TDNH là công cụ thúc đẩy chế độ hạch toán kinh doanh, tăng cường quản lýtài chính, tăng tích lũy đối với DN
Về phía người vay vốn luôn cân nhắc giữa hiệu quả vốn vay mang lại với thời hạn, lãi suất của vốn vay và họ chỉ vay khi tính toán có lãi, đó chính là bản chất của hạch toán kinh tế. Về phía ngân hàng, trước khi cho vay cũng đòi hỏi khách hàng phải thỏa mãn nhiều điều kiện về tình hình tài chính cũng như chất lượng của các báo cáo tài chính.Điều đó buộc DN phải tăng cường công tác hạch toán kinh doanh, quản lý tài chính và tích lũy vốn...
TDNH đáp ứng vốn để góp phần đầu tư phát triển kinh tế
Do đặc điểm của tuần hoàn vốn, nên trong quá trình sản xuất – kinh doanh của các doanh nghiệp luôn có sự không ăn khớp về thời gian và khối lượng, giữa lượng tiền cần thiết để dự trữ vật tư, hàng hóa cho quá trình sản xuất – kinh doanh tiếp theo với lượng tiền thu được từ việc tiêu thụ hàng hóa của chu trình sản xuất – kinh doanh trước đó. Do đó, luân chuyển tiền tệ của các DN có lúc thừa, lúc thiếu. Nguồn vốn DN tạm thời nhàn rỗi cùng với các nguồn tiết kiệm từ dân cư, nguồn kết dư từ ngân sách...được NHTM huy động và sử dụng để đầu tư cho các DN đang tạm thời thiếu vốn, cho nhu cầu tiêu dùng tạm thời vượt quá thu nhập của dân chúng, cũng như cho yêu cầu chi của ngân sách nhà nước trong lúc chưa có nguồn thu... Như vậy, TDNH đã góp phần điều hòa vốn một cách có hiệu quả trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế.
TDNH thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất
Thông qua việc tập trung và ưu tiên vốn cho các ngành kinh tế mũi nhọn, kinh tế trọng điểm, là những nơi có nhu cầu vốn cực lớn, từ đó TDNH góp phần nâng cao sức mạnh, sức cạnh tranh của nền kinh tế, tạo điều kiện để phát triển các quan hệ kinh tế với nước ngoài...
TDNH thúc đẩy quá trình luân chuyển hàng hóa và lưu thông tiền tệ
Thông thường các DN chỉ sử dụng đến vốn ngân hàng sau khi đã huy động mọi nguồn lực của bản thân, điều đó cũng có nghĩa là nếu không có TDNH thì DN khó có khả năng thực hiện cơ hội đầu tư kinh doanh của mình, nhất là trong cơ chế thị trường, nếu để mất cơ hội sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến cơ hội kiếm lợi cho DN. Ngoài ra, TDNH giúp DN tăng thêm năng lực tài chính và do đó tạo khả năng tăng sức mạnh trong cạnh tranh, vươn lên tồn tại và phát triển trên thương trường.
TDNH là công cụ của nhà nước được sử dụng để điều tiết khối lượng tiền tệlưu thông trong nền kinh tế
Như chúng ta đã biết, với một hệ thống các NHTM, khi NHTM thực hiện hành vi cấp tín dụng cho nền kinh tế, cùng với khả năng “tạo tiền” các “bút tệ” sẽ được nhân rộng, tức là đã tạo ra một khả năng cung ứng tiền tệ, làm tăng lượng giá trị trong lưu thông; và với hiệu ứng ngược lại sẽ xảy ra, khi các NHTM thu hẹp tín dụng. Chính từ khả năng này TDNH đã được Nhà nước sử dụng như là một công cụ để điều tiết khối lượng tiền tệ lưu thông thông qua các công cụ thuộc chính sách tiền tệ của NHNN như: dự trữ bắt buộc, hạn mức tín dụng, lãi suất chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở...
TDNH góp phần thúc đẩy tăng cường tiết kiệm và mở rộng đầu tư của nền kinh tế
TDNH là công cụ giúp Nhà nước thực hiện tốt chính sách tiền tệ, đồng thời cũng giúp chính các ngân hàng có một môi trường kinh doanh tốt. Với sức mua đồng tiền ổn định sẽ tạo tâm lý an tâm trong dân chúng, từ đó huy động được tối đa các nguồn vốn tiềm tàng trong xã hội, thỏa mãn cao nhất nhu cầu vốn mở rộng đầu tư của nền kinh tế.
2.2. Tổng quan về quản trị hoạt động tín dụng của NHTM
2.2.1. Khái niệm và đặc điểm của quản trị hoạt động tín dụng của NHTM
Hoạt động tín dụng trong đó hoạt động cho vay là hoạt động cơ bản và truyền thống của ngân hàng, nó gắn liền với lịch sử ra đời của ngân hàng. Tỷ trọng của hoạt động tín dụng bao giờ cũng chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ hoạt động của ngân hàng. Hoạt động tín dụng là hoạt động mang lại nguồn thu nhập chính và chủ yếu cho ngân hàng, và đây cũng chính là hoạt động mang lại rất nhiều rủi ro cho ngân hàng. Do dó quản trị hoạt động tín dụng có tầm quan trọng đặc biệt đối với ngân hàng.
Quản trị tín dụng của bất kỳ NHTM nào trước tiên cũng phải hướng tới sự tồn tại và phát triển bền vững, an toàn, nâng cao năng lực cạnh tranh của chính NHTM đó. Bởi vậy, hai mục tiêu cơ bản bao trùm trong quản trị tín dụng mà NHTM phải đạt được là:
Một là, tăng trưởng bền vững lợi nhuận
Đây là mục tiêu hàng đầu mà quản trị tín dụng của NHTM phải hướng tới. Trong cơ chế thị trường, muốn tồn tại thì kinh doanh phải trang trải đủ chi phí và tích lũy lợi nhuận để mở rộng kinh doanh tạo lợi thế cạnh tranh. Tuy nhiên, đối với NHTMCP thì sức ép về lợi nhuận còn lớn hơn bởi vì do quyền lợi của cổ đông, vì giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán hay trên thị trường OTC. NHTM nói chung và NHTMCP nói riêng phải kinh doanh có lãi, lợi nhuận ngày càng lớn và tăng ổn định, để cổ tức trên mỗi cổ phiếu ngày càng cao. Trong khi đó, hoạt động tín dụng vẫn là nghiệp vụ kinh doanh mang lợi nhuận lớn nhất của NHTM. Hơn nữa, chúng ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nên các NHTM cần phải theo đuổi chính sách lợi nhuận hợp lý.
Hai là, gắn phát triển thị phần với kiểm soát tín dụng, hạn chế rủi ro
Muốn tồn tại trong nền kinh tế thị trường phải cạnh tranh. Muốn cạnh tranh trong hoạt động tín dụng phải mở rộng đầu tư, phát triển thị phần. Nhưng mở rộng đầu tư mà không kiểm soát được thì sẽ không thu hồi được vốn đầu tư, dẫn tới thua
lỗ và xa hơn là phá sản. Rủi ro trong hoạt động tín dụng là rủi ro cơ bản bao trùm dẫn đến sự đổ bể của nhiều NHTM.
Hai mục tiêu trên có mối quan hệ biện chứng với nhau. Thực hiện thành công mục tiêu thứ hai là cơ sở để hoàn thành mục tiêu thứ nhất; mục tiêu thứ nhất là định hướng để thực hiện mục tiêu thứ hai. Tính biện chứng còn thể hiện ở chỗ, hai mục tiêu có tính mâu thuẫn nhau. Một NHTM đề cao mục tiêu lợi nhuận thì họ sẽ áp dụng cho vay lãi suất cao, theo đuổi các dự án đầu tư mạo hiểm; như vậy, thường kéo theo độ an toàn thấp và ngược lại.
Với tư cách "phục vụ góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế” quản trị tín dụng của NHTM phải hướng tới các mục tiêu: thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH; hỗ trợ vốn để hộ gia đình, các DN sản xuất kinh doanh phát triển nhanh sản xuất hàng hóa và dịch vụ, góp phần tăng trưởng bền vững nền kinh tế.
Các khoản đầu tư tín dụng luôn kéo theo sự huy động tài nguyên và nhân lực vào một mục tiêu cụ thể nào đó, theo đó sẽ đem lại cho ngân hàng và xã hội những lợi ích cụ thể, mà đôi khi lợi ích của hai bên có thể mâu thuẫn nhau. Do đó, quản trị tín dụng của NHTM phải gắn với mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội của nhà nước, của từng địa phương. Quản trị tín dụng tốt phải bảo đảm một khoản tín dụng phát ra phải nhằm vào mục tiêu phát triển kinh tế, đáp ứng chiến lược phát triển lâu dài của nền kinh tế. Nói cách khác, quản trị tín dụng phải bảo đảm các khoản đầu tư tín dụng đạt được mục tiêu phát triển lành mạnh của nền kinh tế.
Chức năng của quản trị tín dụng cũng bao gồm: hoạch định, lãnh đạo, tổ chức, kiểm tra và kiểm soát hoạt động tín dụng của NHTM.
2.2.2. Nội dung cơ bản của quản trị hoạt động tín dụng của NHTM
2.2.2.1. Quản trị nguồn vốn cho vay của NHTM
Khi nghiên cứu quản trị TDNH, các nhà nghiên cứu thường không xem chính sách nguồn vốn là một nội dung cấu thành của quản trị tín dụng. Tuy nhiên thực tế cho thấy rằng, khi nghiên cứu quản trị tín dụng của NHTM, cần phải xem chính sách nguồn vốn như là một nội dung cơ bản của quản trị tín dụng, bởi vì:
Về phương diện lý luận, thuật ngữ Tín dụng (Credit) xuất phát từ chữ Latin là Credo, nghĩa là “tin tưởng, tín nhiệm”. Từ đó cho thấy, hoạt động tín dụng của TCTD hiểu theo nghĩa rộng là việc các TCTD sử dụng uy tín của mình để huy động các loại nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế và sử dụng nó để cấp tín dụng cho những người có nhu cầu vay vốn được ngân hàng tín nhiệm. Hay nói cách khác, hoạt động huy động vốn là một mảng của hoạt động tín dụng, theo đó chính sách huy động vốn là một nội dung cơ bản của quản trị tín dụng.
Mặt khác, quản trị tín dụng của NHTM đối với phát triển kinh tế là một hệ thống các biện pháp liên quan đến việc mở rộng hoặc thu hẹp qui mô tín dụng. Muốn mở rộng qui mô tín dụng, phải tăng cường huy động vốn để cho vay. Muốn thu hẹp qui mô tín dụng phải giảm thấp huy động vốn để tránh thua lỗ do phải trả lãi cho phần vốn huy động thừa. Điều này có nghĩa là hoạt động huy động vốn gắn kết chặt chẽ với hoạt động cấp tín dụng trong quản trị tín dụng của NHTM.
Về mặt thực tiễn, NHTM có chủ động huy động được vốn trên thị trường thì mới có thể chủ động được trong hoạt động cho vay, nhất là chủ động trong quản trị rủi ro thanh khoản. Các NHTM thường phải huy động vốn từ các kênh, các khu vực khác để cấp tín dụng cho khu vực kinh tế, địa bàn hoạt động mà mình cần thiết mở rộng tín dụng tới khu vực đó. Do đó, nếu không xem chính sách huy động vốn là một bộ phận cấu thành nên quản trị tín dụng của NHTM thì quản trị tín dụng đó sẽ phiến diện và tính thực thi không cao.
Vốn là điều kiện cần thiết và không thể thiếu được để thực hiện quá trình SX- KD của mọi chủ thể kinh tế. Muốn phát triển kinh tế, điều kiện tiên quyết là phải có vốn: “Qui mô vốn sản xuất là chìa khóa của phát triển kinh tế”. Vì vậy, việc đầu tư vốn cho khách hàng có vai trò hết sức quan trọng. Hoạt động tín dụng của NHTM là hoạt động dùng “vốn” mà mình quản lý để cho khách hàng vay, vốn càng có tầm quan trọng đặc biệt. Mọi hoạt động đầu tư, cho vay, bảo lãnh sẽ không được thực hiện nếu cạn nguồn vốn hoạt động. Nguồn vốn hoạt động của ngân hàng bao gồm vốn tự có, vốn huy động và vốn đi vay.