lệ ngọc với đôi mắt xanh sâu đẹp chưa từng có trên đời phải hai mươi năm sau mới khóc, mới vọt trào thành lệ ngọc. Điều đó chính là nhờ chàng qua “Hai mươi năm mục kích bao nhiêu cảnh tượng, chàng chỉ nín lại để kết tinh cảm xúc, và con mắt ráo chỉ để chờ khóc một lần cho xứng đáng; cả người chàng thu vén tâm hồn vật vã mới bật lên thành những hạt lệ châu”. Như vậy muốn có một tác phẩm nghệ thuật xứng đáng người nghệ sĩ phải toàn tâm, toàn ý để tạo ra nó, cuối cùng chẳng qua cũng chỉ làm đẹp cho đời, cho phong phú tâm hồn người đời và người nghệ sĩ lấy đó làm niềm vui lớn nhất của họ. Giống như Chú Lái Khờ sau khi đã mở rương hòm ban phát cho mọi người tất cả tài sản của mình, người thi sĩ cũng khờ như chú lái. Sau khi đã ban phát hết châu báu, chú mỉm miệng cười hân hoan như một vị Phật. Hòm rương tuy nhẹ nhưng tài chí không vơi thì chú lái còn buồn nỗi chi”.
Có thể nói Xuân Diệu là người hiểu hơn ai hết: tình cho đi không lấy lại bao giờ nhưng ông vẫn nguyện dâng cho đời khát khao được cống hiến được lan toả thanh âm và hương sắc cho muôn đời sau. Xuân Diệu cho đó là niềm an ủi lớn nhất đối với đời người nghệ sĩ. Trong bài An ủi giữa loài người ông viết: “Tấm lòng thơ của tôi chỉ thấy an ủi khi nghĩ đến người ta. Người ta sẽ không nghĩ đến tôi, nhưng tôi sẽ không cần họ nghĩ, tôi chỉ thấy bớt buồn đành sống vui yên. Vì có triệu người ngoài kia...Trước biển loài người tôi quên nghĩ đến thân mình”. Đây chính là nỗi niềm tâm sự về cuộc đời người nghệ sĩ cũng có ý nghĩa như một thông điệp về tư tưởng nghệ thuật mà Xuân Diệu muốn gửi đến mọi người. Một lời tâm sự hết sức thành thật từ một trái tim chân thành vừa như thủ thỉ chân tình, vừa như khuyên dặn của một người có ý thức cao về nghệ thuật.
Như trên đã nói, Xuân Diệu thực sự coi lao động nghệ thuật là một nghề, thành công và thất bại là không thể tránh khỏi. Đồng thời người nghệ sĩ
cũng chịu không ít những đâu khổ buồn thương từ mọi phía đời sống thường nhật dội đến.
Lấy hình ảnh Người lệ ngọc làm biểu tượng của người nghệ sĩ, ta thấy cuộc đời Người lệ ngọc là những lần sinh ngọc kế tiếp nhau, mỗi lần sinh ngọc đều có sự chuyển hoá chứa đựng một ý nghĩa ẩn dụ khác nhau gián tiếp bộc bạch quan niệm của Xuân Diệu về nghệ thuật.
Hình ảnh đầu tiên là sự chuyển hoá từ người không khóc thành Người - lệ - ngọc. Đây là sự chuyển hoá tất yếu của đôi mắt xanh sâu đã chứng kiến bao cảnh đời. Sau năm năm, tình yêu đến, “bởi tình yêu chàng thêm cảm thông với vạn vật”. Vậy là tình yêu đã nâng đỡ cho chàng, chàng trở thành một nghệ sĩ toàn vẹn, “mắt chàng cũng dường bằng thơ phú của thi sĩ”. Nhưng vì nhu cầu cuộc sống, vì miếng cơm manh áo đeo đẳng bám riết, khiến cho bao ước mơ cao xa tan biến. Người ta buộc phải làm những gì trái với hoài bão thuở ban đầu của mình; “hồn thanh cao của chàng đẹp như vũ trụ mà phải sa vào cái cảnh đem hồn đi rao”. Ngọc dần mất sắc, không trong suốt như xưa.
Người lệ ngọc càng ngày càng rơi vào cảnh túng quẫn. Chàng đau khổ bước qua lời nguyền: “Nhất quyết chừa cái nghề bán ngọc, cái sự không phải của người làm! Thế mà một ngày túng quá, chàng đã nảy ra cái ý rụng rời: Chàng nghĩ đến những viên ngọc của mình. Chàng bán ngọc đây. Chàng bán mình đấy! Chàng sẽ tệ hơn người con gái bán thân, chàng sẽ phải bán chính cái hồn chàng đó. Càng ngày chàng càng trụy lạc dần. Đôi mắt xanh giờ đây dù sâu hoắm, mầu xanh có bóng mây qua chỉ vì những lần gắng gượng vặn hồn mình để sinh ra ngọc. Vậy là đầu óc chàng chỉ xoay quanh những kế để khóc được, chỉ gợi những chuyện trăm thảm nghìn sầu, xót thương li biệt... Tìm mọi cách kích thích nội tâm, chàng đã thành một cái máy”.
Từ cách sinh ngọc một cách thần kỳ và cả cách mất đi, cạn dòng lệ quý của Người lệ ngọc, ta liên tưởng đến cuộc đời của người nghệ sĩ. Người viết văn không có con đường nào khác là phải lao động cật lực, phải biết tự yêu cầu cao đối với công việc của chính mình và phải thực sự có tài, hơn thế nữa phải tự mình nghiêm khắc với mình. Đem bán rao nghệ thuật một cách dễ dàng là tự đánh mất giá trị và tài năng thiên phú.Anh ta sẽ thất bại, thậm chí thui chột mầm văn chương. Đòi hỏi nhà văn phải có tài là một qui luật khách quan của xã hội, nhờ có tài, người nghệ sĩ mới đem được điều cảm xúc của mình hoà vào chất liệu của đời sống, của mọi vấn đề mới tạo được tác phẩm có giá trị lớn.
Đồng thời, công việc viết văn không đơn giản, và rất công phu, vì phải đối đầu với những thói thường của đời người và của bản thân nghề nghiệp. Trong cuộc đời lao động nghệ thuật, nếu chỉ muốn có danh lợi, thì sẽ đánh mất sự hồn nhiên trong sáng của nghề nghiệp. Viết văn cũng phải xuất phát từ bản chất nghệ thuật, đến với nó bằng thái độ tự nguyện, vì nhu cầu của tâm hồn, vì sự thúc đẩy bên trong chứ không thể gò ép, khiên cưỡng. Người lệ ngọc đã bán tài năng và cảm xúc của mình vì miếng cơm manh áo và đổi lấy một đời sống vật chất đầy đủ. “Nước mắt ngọc đối với chàng đã thành một cái nghề. Gian nhà ở, bữa cơm; lệ ngọc. Trang giấy viết, bức tranh treo; lệ ngọc. Gương lược của người yêu, đôi giày, áo mới cùng ở lệ ngọc cả. Cho đến cuộc chơi thuyền - bữa rượu nhỏ; chút phong lưu nào cũng ở giọt lệ chi ra”. Vậy là cuộc sống của chàng cần ngọc để bán, chàng phải tự hành xác lấy gai châm vào quanh mắt để lệ rơi ra, kết ngọc, nhưng bây giờ “ngọc của chàng không hồn nhiên, đọng phải kích thích vặn vẹo nên kém vẻ đẹp trong cái sáng tinh tuý mất đi, sắc ngọc mà cũng thấy rõ phần mệt nhọc. Lệ cho ra không trong suốt như xưa. Một vẻ đục bao lấy viên ngọc, cho đến người mua cũng trông thấy. Giá ngọc sụt đi”.
Cơm áo không đùa với khách thơ là một sự thật khắc nghiệt của cuộc đời. Nhưng trong mọi hoàn cảnh người nghệ sĩ phải luôn tỉnh táo, giữ minh, dẫu biết rằng cuộc đời đầy gai lửa và nhiều cám dỗ nếu không vững vàng sẽ gục ngã, liên tiếp sai lầm, thất bại. Ngọc hết, tình chàng hết. Người lệ ngọc trắng tay, mình gầy xác ve tâm hồn mệt mỏi chán chường: “ mắt chàng đã đỏ như san hô. Tất cả điệu nhạc xanh veo veo như toả ra ánh sáng đã biến mất từ lúc nào! Người mình yêu cũng đã bỏ đi. Thân hình rạc như con ve sắp cuối hè, đôi mắt như máu mà thêm lửa”.
Có thể bạn quan tâm!
- Mối Quan Hệ Giữa Tính Cách An Nam Trong Văn Chương Và Vấn Đề Mở Rộng Văn Chương.
- Tư Tưởng Văn Chương Và Quan Niệm Về Thơ Của Xuân Diệu Qua Phê Bình.
- Người Nghệ Sĩ Phải Có Một Tâm Hồn Thành Thật Và Một Trái Tim Đa Cảm.
- Thơ Phải Hướng Về Con Người: Thơ Của Người
- Quan niệm văn chương của Xuân Diệu trước 1945 - 9
- Quan niệm văn chương của Xuân Diệu trước 1945 - 10
Xem toàn bộ 101 trang tài liệu này.
Mùa xuân đã sang. Pháo giao thừa nổ năm mới đã đến cuộc đời đáng lẽ sang trang mới tươi đẹp hơn. Song Người lệ ngọc tài hoa mới ba mùa xuân đã phải trả giá quá đắt cho những gì chàng đã làm. Cuối tác phẩm là hình ảnh Người lệ ngọc: “Chàng tĩnh tâm. Linh hồn người như thắm lại, hồi xuân. Có lẽ người đã nhuần thấm trở lại bắt đầu từ phút này”.
Pháo giao thừa nổ như sự bừng sáng của tâm hồn: “ Cả tâm hồn người đẹp rực rỡ như tự tha thứ... Người lệ ngọc khóc ra máu”. Một lần nữa Xuân Diệu nói đến sự thức tỉnh, sự thanh lọc chính ngay trong con người nghệ sĩ. Và như vậy, trong câu truyện Người lệ ngọc này mỗi lần sinh ngọc đều tiềm ẩn một ý nghĩa, một quan niệm về nghệ thuật văn chương của Xuân Diệu: Có được một tác phẩm văn chương người nghệ sĩ phải lao động thực sự, phải lao tâm khổ tứ . Giá trị của mỗi tác phẩm sự trân trọng, quí mến của tác giả đối với tác phẩm đó phụ thuộc vào ý thức nghệ thuật và sự chân thành, sự hồn nhiên của người cầm bút. Điều đó làm nên sự thành công hay thất bại của nhà văn.
2.2. Quan niệm thi ca và nhà thơ:
2.2.1. Sự tinh chất của thơ - Thơ ngắn.
Xuân Diệu chủ trương một thứ thơ ngắn – có thể hiểu là ông nói về sự hàm súc, sự tinh tuý của thơ. Theo ông “cái đẹp chỉ lộ ra trong một chớp nhoáng. Đấy là cái đẹp ở trên tất cả mọi cái đẹp. Đây là đỉnh cao nhất, mà cái nhất chỉ có một thôi” vì “cái đẹp chỉ lộ ra trong một chớp nhoáng” nên ta phải chộp ngay, vồ ngay lấy nó. Chính sau này nhà thơ của chúng ta cũng nhấn mạnh lại ý tưởng ấy; “ Phải biết lắng nghe, dò xét tâm lí của con người, đặng mà bắt chộp cho được những trạng thái đặc biệt của tâm hồn, những thoáng run rẩy của nội tâm.
Đối với Xuân Diệu, thơ là cuộc đời, là tâm hồn, là lẽ sống của ông. Chính vì thế mà ông luôn khao khát được hoà nhập tâm hồn mình vào những khoảnh khắc đẹp nhất của cuộc sống trần thế này. Ông đón nhận chờ đợi những giờ phút diệu kỳ chợt đến rồi chợt đi. “Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình. Khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn tha thiết”. (Hoài Thanh). Sống đã vậy, thơ cũng là một hình thức sống - nó cần đến cái khoảnh khắc sáng rực ấy, nó cần cái mùi hương, cần cái tinh chất của đời. Xuân Diệu nói “Ta dàn trải làm gì? Ta hãy đọng lại nơi vài dòng châu sáng". Ông cho rằng chỉ có thơ ngắn mới có thể thể hiện được tài năng thâu tóm của thi sĩ và chính là cây cầu chuyển tải những tư tưởng tình cảm giữ con người với con người, nó làm cho người gần người hơn.
Quan niệm của Xuân Diệu về thi sĩ và những dòng thơ được chắt lọc từ chính tâm hồn: “Nhà thi sĩ không bán những thùng nước loãng chỉ tốt để tưới đường cho vạn chân đi, người chỉ tặng một, hai giọt thơm đựng trong bình thuỷ tinh sáng loáng” thơ như một thứ hương “như một giọt sương tinh mà gió đêm gieo trên đời làm bằng sự kết đọng của muôn thước - khối bóng trăng”.
Yêu thơ ngắn, thích thưởng thức thứ thơ tinh tuý, hàm súc bao nhiêu thì Xuân Diệu chối bỏ những bài thơ trường thiên bấy nhiêu. Ông cho rằng “ một bài thơ dài là một điều vô lý, một sự giả dối, một cách mâu thuẫn nữa”. Vì sao?- vì một bài thơ dài sẽ làm ta “nhọc mệt, chán chê, bần thần, cho đến khó chịu”, nó giống như ta “ngửi lâu một mùi hương xói thấm, uống nhiều một nước rượu choáng nồng” và những bài thơ dài “thực ra chỉ ghép bằng những bài thơ ngắn: thứ hồ dán thơ tự nhiên phải dã ra để lộ sự gắng công vô duyên và uổng phí của nghệ thuật. Đóng những khung gỗ đã gắn dát ngọc vào, là làm một việc mất thì giờ: chất không vĩnh viễn tất phải mục nát, mà có lẽ lại hư lây đến những của đẹp lẫn trong cát bụi tầm thường”.
Phải viết một bài báo dành riêng cho chủ đề thơ ngắn, Xuân Diệu gửi gắm trong ấy khá nhiều suy nghĩ của ông về thơ. Phải chăng ông nhận ra nhiều bài Thơ mới, trong đó có thể có những bài thơ của chính ông còn dàn trải, kể lể mà thiếu đi sự cô đọng, tinh chất. Một lần nữa, ông lại có dịp trình bày những quan niệm của ông về bản chất thơ ca như một lời nhắn nhủ chung cho thi đàn, như một tâm niệm của chính ông? Nhấn mạnh đến sự tinh chất của thơ- thơ ngắn, nhà thơ trẻ có những cực đoan khi ông phủ nhận thơ trường thiên nhưng người đọc vẫn có thể tiếp nhận cái lý căn bản trong bài viết này nó thôi thúc ông lên tiếng: thơ, hơn bất cứ hình thức nghệ thuật nào, phải biết chưng cất lấy tinh hoa của cuộc đời.
Chính vì yêu thơ ngắn, chủ trương một thứ thơ ngắn như vậy nên ta thấy hầu hết những bài thơ của Xuân Diệu thường ngắn gọn và súc tích nó chứa đựng nhiều những ẩn ý sâu xa mà không phải ai đọc một lần cũng có thể hiểu hết tâm hồn Xuân Diệu. – “một nguồn sáng dồi dào” (Hoài Thanh).
2.2.2. Tính trừu tượng và phức tạp của thơ - Thơ khó.
Một nhà thơ luôn viết những bài thơ “sáng trưng”, mỗi lời thơ là một bộc bạch như Xuân Diệu cũng lại từng bàn đến Thơ khó trên báo Ngày nay năm 1939. Ông bênh vực thứ thơ khó của Mallarme, Valery, Baudelaire mà nhiều người cho rằng “bí hiểm”. Ông cãi: “Cái tính cách cốt yếu của thơ là sự khó. Đó là quan niệm mới nhất, mà cũng đúng nhất. Vì sao? Vì thơ thực sự là thơ thì phải “thuần tuý”. Người thi sĩ gắng sức đi tìm cái thơ thuần tuý (poesie pure) nghĩa là đi thu góp những cái tinh hoa, những cái cốt yếu, cốt lõi của sự vật. Thơ khó là vì nói những điều khó, phải suy nghĩ, phải nghiền ngẫm: khó vì cách nói khác với cách nói thường”. Xuân Diệu bênh vực thơ khó, đồng thời cố gắng lý giải sự tồn tại có lý của nó bởi vì “tính cách cốt yếu của thơ là sự khó”. Xuân Diệu lý giải: “ Thơ khó ấy cũng là do bản thân đời sống có những điều dễ nói, có những ý tưởng thông thường hễ nói ra ai cũng hiểu được, có những ý sâu sắc thì không phải ai cũng hiểu, ví như những bông hoa, có hoa vừa tầm tay hái, có những hoa phải vươn cả mình lên mới ngắt được và có những bông hoa phải qua đèo, leo núi khó nhọc lắm mới mang được về. Hơn nữa muốn thực là thơ thì bản thân nó phải có một cuộc sống riêng, nhà thi sĩ phải biết “thu góp những cái tinh hoa, những cái cốt yếu, cốt lõi của sự vật” đem kết đọng lại làm nên những câu thơ đậm đà. “Tài liệu thì vấn lấy trong đời thường, trong cuộc sống hằng ngày, trong những rung động của trái tim, của xương thịt, nhưng khi đã đem vào thơ thì tài liệu mất đi thành ngọc châu”. “Thơ khó” vì thơ khác văn xuôi, thơ ở trong một thế giới riêng; thơ vẫn là sự sống, nhưng là sự đọng lại, kết tinh biến thành cái đẹp.
Để giúp người đọc khám phá sâu hơn vào bản chất của thơ, Xuân Diệu nhấn mạnh đặc trưng “Thơ khó”.Ông cho rằng có hai loại thơ khó. Có loại khó cao kì về ý tưởng và cả về hình thức của những người chủ trương rằng thơ phải khó như hai nhà thi sĩ Mallarme, Valery. Đó là thơ khó do người viết rất cố gắng, rất xếp đặt, có khi “đặc biệt dụng công làm cho tối nghĩa”. Và
loại khó thứ hai, “người thi sĩ làm thơ rất tự nhiên, rất vô tâm, thế mà thơ lại có tính cách khó khăn”. “Người thi sĩ tìm cái đẹp, chứ có tìm cái khó đâu! Khó hiểu hay dễ hiểu đó là lời bình phẩm của người chứ trong khi làm, người thi sĩ không ngờ rằng thơ mình lại khó hiểu”.
Vậy thì thơ khó ít nhiều là do sự thưởng thức của người đọc. Mối quan hệ song hành, song phương giữa nhà thơ và người đọc ít nhiều đã được đề cập đến trong bài viết. Như đã biết, Xuân Diệu yêu cầu rất cao đối với nhà văn, đồng thời cũng quan niệm vai trò của công chúng độc giả một cách tích cực: tác giả phải ngày càng “nấu nướng cho tốt lành nhiều hơn nữa” và độc giả cũng phải “cải tạo cái lưỡi của mình” mới thưởng thức được cái hay, cái đẹp của tác phẩm. Ông diễn đạt bằng lí lẽ và cảm xúc:
“Những nhà thơ tận dụng về phần mình, còn công chúng cũng nên ủng hộ thơ bằng một sự chống cái “tự nhiên nhi nhiên” thủ công nghiệp và nông nghiệp bằng một thái độ tìm hiểu, chiếu cố, những bài thơ, đoạn thơ thoạt đọc như là khó, thì chưa nên vứt đi ngay mà hãy thử đọc lại ba lần, năm lần, xem nó chưa đựng một cái duyên ngầm nào hay không: “Nửa năm hơi tiếng vừa quen - Sân ngô cành bích đã chen lá vàng. Kiều và Thúc sinh cần đến nửa năm mà mới chỉ đạt được cái trình độ “hơi tiếng vừa quen”! Đối với vợ, với người yêu, với bạn có khi người ta có duyên ngầm mà mình vội vàng, lơ đễnh thì không thấy, đối với một số tác phẩm cũng vậy”! ở thời kỳ này, thơ khó vẫn còn là một vấn đề mới mẻ: người đọc vốn quen với thứ thơ ngâm nga dễ thuộc. Với sự bênh vực thơ khó, phải chăng muốn người đọc nâng cao hơn nữa "tầm đón đợi" của mình trước sự phát triển tất yếu của một hướng đi trong thơ. Những ý tưởng trên đây của Xuân Diệu về thơ, trong hoàn cảnh lúc bấy giờ là mạnh dạn, mới mẻ, có sự tiếp thu, ảnh hưởng của văn học phương Tây nhưng không phải không có cơ sở từ truyền thống văn học dân tộc. Có người đã từng nhận xét về thơ ông như sau: “Thơ Xuân Diệu là một