Bên cạnh đó, Điều 110 Luật Quản lý thuế năm 2019 quy định thêm các trường hợp được tiến hành kiểm tra tại trụ sở của NNT như:
- Trường hợp Kiểm toán nhà nước, Thanh tra nhà nước, cơ quan khác có thẩm quyền kiến nghị;
- Trường hợp chia, tách, sáp nhập, hợp nhất, chuyển đổi loại hình doanh nghiệp, giải thể, chấm dứt hoạt động, cổ phần hóa, chấm dứt hiệu lực MST, chuyển địa điểm kinh doanh và các trường hợp kiểm tra đột xuất, kiểm tra theo chỉ đạo của cấp có thẩm quyền, trừ trường hợp giải thể, chấm dứt hoạt động mà CQT không phải thực hiện quyết toán thuế theo quy định pháp luật.
Quy định này thể hiện rõ việc mở rộng hơn hẳn phạm vi thẩm quyền kiểm tra thuế tại trụ sở của NNT trong các trường hợp cần thiết từ nhu cầu thực tiễn, giúp cho cơ quan quản lý thuế không bỏ sót sai phạm do thiếu thẩm quyền như trước đây. Ngoài ra, thời hạn kiểm tra thuế và thời gian gia hạn kiểm tra thuế cũng được kéo dài hơn, từ “không quá 05 ngày làm việc” theo điểm c Khoản 3 Điều 78 Luật Quản lý thuế năm 2016 sửa đổi, bổ sung lên “không quá 10 ngày làm việc” quy định tại điểm c Khoản 4 Điều 110 Luật Quản lý thuế năm 2019, việc kéo dài thời gian vừa giúp cải thiện hiệu quả công tác rà soát, thu thập tài liệu, thông tin lại vừa nhằm nâng cao chất lượng kết quả kiểm tra thuế.
Ba là, nhóm nội dung điều chỉnh đối với hoạt động thanh tra thuế. Pháp luật quản lý thuế quy định khá chi tiết về những nội dung liên quan đến công tác thanh tra thuế như: các trường hợp thanh tra thuế, quyết định, thời hạn và kết luận thanh tra thuế, nhiệm vụ, quyền hạn của những người có thẩm quyền thanh tra thuế, quyền và nghĩa vụ của đối tượng thanh tra thuế. Với mục đích thúc đẩy công tác thanh tra thuế đạt hiệu quả tối ưu cũng như bảo vệ tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, Luật Quản lý thuế năm 2019 không những bổ sung nhiệm vụ, quyền hạn tăng trách nhiệm cho các chủ thể có thẩm quyền thanh tra tại Điều 116 và 117, mà còn mở rộng thêm các quyền và giảm bớt một số nghĩa vụ cho đối tượng thanh tra thuế tại Điều 118. Tương tự quy định về kiểm tra thuế, các trường hợp được tiến hành
thanh tra thuế tại Điều 113 cũng đa dạng hơn trước, có thể thanh tra theo cả yêu cầu của công tác quản lý thuế trên cơ sở kết quả phân loại rủi ro trong quản lý thuế hoặc theo kiến nghị của Kiểm toán nhà nước, kết luận của Thanh tra nhà nước và cơ quan khác có thẩm quyền. Thời hạn thanh tra thuế không còn bị giới hạn trong vòng 30 ngày như quy định tại Khoản 1 Điều 83 Luật Quản lý thuế 2016 sửa đổi, bổ sung mà được tính là thời gian thực hiện thanh tra tại trụ sở của NNT kể từ ngày công bố quyết định thanh tra đến ngày kết thúc việc thanh tra theo Điều 115 Luật Quản lý thuế năm 2019.
Có thể thấy, các quy định về thanh tra, kiểm tra thuế trong Luật Quản lý thuế năm 2019 có nhiều điểm khá tiến bộ, phù hợp với thực tiễn vì đã hướng đến những yêu cầu thiết yếu của hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế bao gồm: công khai, minh bạch, chặt chẽ và toàn diện. Tuy nhiên, hồ sơ, trình tự, thủ tục cần thiết trong thanh tra, kiểm tra thuế vẫn đang thực hiện theo các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Quản lý thuế năm 2016 sửa đổi, bổ sung, do luật mới chỉ mới được ban hành và có hiệu lực trong thời gian gần đây nên cơ quan có thẩm quyền chưa kịp xây dựng văn bản dưới luật thay thế phù hợp với hệ thống quy định hiện hành.
2.1.6.2. Quy định về xử phạt vi phạm pháp luật về thuế TNCN
Nội dung xử phạt vi phạm pháp luật thuế TNCN được quy định trong Luật Quản lý thuế năm 2019; Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2017 sửa đổi, bổ sung; Nghị định số 129/2013/NĐ-CP ngày 16/10/2013 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính về thuế và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế; Thông tư số 166/2013/TT-BTC ngày 15/11/2013 của Bộ Tài chính quy định chi tiết về xử phạt vi phạm hành chính về thuế…
Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2020 đã sửa đổi, bổ sung một số nội dung về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý thuế TNCN theo hướng mở rộng phạm vi, mô tả chi tiết những hành vi vi phạm bị xử lý đối với hành vi vi phạm thủ tục thuế tại Điều 141; hành vi khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được miễn, giảm, hoàn, không thu tại Điều 142; hành vi trốn thuế tại Điều 143. Sự thay đổi đầy tính tiến bộ
Có thể bạn quan tâm!
- Thực Trạng Pháp Luật Về Quản Lý Thuế Tncn Ở Việt Nam
- Về Quản Lý Kê Khai Thuế, Nộp Thuế, Ấn Định Thuế Tncn
- Quy Định Về Giảm Trừ Gia Cảnh Mức Giảm Trừ Gia Cảnh
- Thực Tiễn Thực Hiện Pháp Luật Về Quản Lý Thuế Tncn Tại Thành Phố Bắc Kạn, Tỉnh Bắc Kạn
- Một Số Hạn Chế Trong Quá Trình Thực Hiện Các Quy Định Pháp Luật Về Quản Lý Thuế Tncn Tại Chi Cục Thuế Thành Phố Bắc Kạn, Tỉnh Bắc Kạn Và
- Bổ Sung Quy Định Về Quản Lý Thuế Tncn Đối Với Thu Nhập Từ Chuyển Nhượng Bất Động Sản
Xem toàn bộ 118 trang tài liệu này.
này vừa dự liệu đầy đủ tất cả tình huống có thể xảy ra, vừa tăng tính giáo dục, răn đe, giảm thiểu tối đa sai phạm trong việc tính thuế TNCN, kê khai, nộp thuế và làm hồ sơ xin miễn, giảm, hoàn thuế TNCN, vừa hạn chế gian lận, trốn thuế.
Nội dung hoàn toàn mới quy định về hình thức xử phạt, mức phạt tiền và biện pháp khắc phục hậu quả được đưa vào Luật Quản lý thuế năm 2019, từ đây cơ quan có thẩm quyền có thể trực tiếp áp dụng điều luật này khi phát hiện đối tượng có hành vi vi phạm về thuế mà không cần đối chiếu qua Luật Xử lý vi phạm hành chính nữa. Cụ thể Điều 138 quy định những nội dung sau:
1. Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính về quản lý thuế bao gồm:
a) Cảnh cáo;
b) Phạt tiền
2. Mức phạt tiền trong xử phạt vi phạm hành chính về quản lý thuế được quy định như sau:
a) Mức phạt tiền tối đa đối với hành vi quy định tại Điều 141 của Luật này thực hiện theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính;
b) Phạt 10% tính trên số tiền thuế khai thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc số tiền thuế khai tăng trong trường hợp được miễn, giảm, hoàn, không thu thuế đối với hành vi quy định tại Điểm a Khoản 2 Điều 142 của Luật này;
c) Phạt 20% tính trên số tiền thuế khai thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc số tiền thuế khai tăng trong trường hợp được miễn, giảm, hoàn, không thu thuế đối với hành vi quy định tại Khoản 1 và các Điểm b, c Khoản 2 Điều 142 Luật này
d) Phạt từ 01 lần đến 03 lần số tiền thuế trốn đối với hành vi quy định tại Điều 143 của Luật này.
3. Các biện pháp khắc phục hậu quả trong xử phạt vi phạm hành chính về quản lý thuế bao gồm:
a) Buộc nộp đủ số tiền thuế trốn, thiếu;
b) Buộc nộp đủ số tiền đã miễn, giảm, hoàn, không thu thuế không đúng.
Trước đây theo quy định tại Điều 104 Luật Quản lý thuế năm 2016 sửa đổi, bổ sung thì nguyên tắc xử phạt vi phạm pháp luật về thuế đồng thời là hệ thống nguyên tắc áp dụng chung cho các hành vi vi phạm hành chính khác. Việc thay đổi cách thức quy định hệ thống các nguyên tắc xử phạt nhằm hỗ trợ CQT xác định được NNT khi thực hiện nhóm hành vi này sẽ bị xử phạt tương ứng như thế nào. Một số nguyên tắc được quy định bổ sung ở Điều 136 Luật Quản lý thuế năm 2019, ví dụ như: với vi phạm hành chính về sử dụng hóa đơn không hợp pháp, sử dụng không hợp pháp hóa đơn hoặc sử dụng hóa đơn không đúng quy định dẫn đến thiếu thuế, trốn thuế thì không xử phạt vi phạm hành chính về hóa đơn mà bị xử phạt vi phạm hành chính về quản lý thuế; mức phạt tiền tối đa đối với hành vi khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được miễn, giảm, hoàn, không thu, hành vi trốn thuế thực hiện theo quy định của Luật Quản lý thuế; hoặc người có thẩm quyền đang thi hành công vụ phát hiện hành vi vi phạm hành chính về quản lý thuế có trách nhiệm lập biên bản vi phạm hành chính theo quy định. Trường hợp người nộp thuế đăng ký thuế, nộp hồ sơ khai thuế, quyết toán thuế điện tử nếu thông báo tiếp nhận hồ sơ đăng ký thuế, hồ sơ khai thuế, hồ sơ quyết toán thuế bằng phương thức điện tử xác định rõ hành vi vi phạm hành chính về quản lý thuế của người nộp thuế thì thông báo này là biên bản vi phạm hành chính làm căn cứ ban hành quyết định xử phạt.
Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2017 sửa đổi, bổ sung quy định về các hình thức xử phạt cũng như biện pháp khắc phục hậu quả sau vi phạm có hiệu quả nhất định giúp ngăn chặn các hành vi vi phạm hành chính về thuế. Tuy nhiên, nhiều quy định không còn phù hợp để áp dụng, nhiều mức xử phạt không còn tương xứng với thiệt hại do hành vi vi phạm thực tế gây ra. Phần lớn các Nghị định, Thông tư chỉ “chép lại” luật mà không có sự cụ thể hóa cần thiết với các vấn đề được quy định trong Luật Xử lý vi phạm hành chính. Hơn thế, mức phạt tiền với các hành vi vi phạm hiện nay thật sự chỉ mang tính chất tượng trưng cho nên các nhà làm luật đang có xu hướng nâng cao mức phạt tiền để tăng tính răn đe, giảm thiểu hành vi vi phạm hành chính về thuế. Trong khi các vi phạm hành chính về thuế TNCN thường
là những vi phạm nhỏ, mức độ nguy hiểm cho xã hội không cao nhưng lại bị phạt tiền ở mức rất cao sẽ gây ra sự bất hợp lý về cả lý thuyết lẫn thực tiễn. Ngoài ra, Chương III Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2017 sửa đổi, bổ sung vẫn chưa có quy phạm điều chỉnh một số vấn đề phát sinh trên thực tế như khi đối tượng bị xử phạt đã chết hoặc bị giải thể, việc miễn giảm tiền phạt đối với đối tượng không có điều kiện để nộp phạt…
2.1.7. Về cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế TNCN
Cưỡng chế thi hành quyết định hành chính là khâu cuối cùng trong quy trình quản lý thuế nói chung và quy trình quản lý thuế TNCN nói riêng, thể hiện quyền lực của nhà nước qua cơ chế cưỡng chế thi hành và bắt buộc tuân thủ. Nếu CQT lựa chọn được biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế phù hợp, áp dụng kịp thời và xử lý đúng đối tượng thì nguồn thu vào NSNN sẽ phần nào được đảm bảo.
Các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế nói chung theo Luật Quản lý thuế năm 2019 bao gồm:
- Trích tiền từ tài khoản của đối tượng bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế tại Kho bạc Nhà nước, ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng khác; phong tỏa tài khoản;
- Khấu trừ một phần tiền lương hoặc thu nhập;
- Dừng làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu;
- Ngừng sử dụng hóa đơn;
- Kê biên tài sản, bán đấu giá tài sản kê biên theo quy định của pháp luật;
- Thu tiền, tài sản khác của đối tượng bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế do cơ quan, tổ chức, cá nhân khác đang nắm giữ;
- Thu hồi giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, giấy chứng nhận đăng ký hợp tác xã, giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, giấy phép thành lập và hoạt động, giấy phép hành nghề.
Đây là bảy biện pháp cưỡng chế có tính độc lập tương đối, không phải các bước thực hiện một quy trình mà là những phương pháp khác nhau nhưng pháp luật
lại buộc cán bộ quản lý thuế phải thực hiện tuần tự từng biện pháp khiến quá trình thực hiện gặp nhiều khó khăn. Cụ thể theo Điều 5 Thông tư 215/2013/TT-BTC hướng dẫn về cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế quy định các biện pháp cưỡng chế hành chính thuế được áp dụng lần lượt theo thứ tự từng biện pháp một. Biện pháp cưỡng chế sau chỉ được thực hiện khi không áp dụng các biện pháp cưỡng chế trước đó hoặc đã áp dụng nhưng chưa thu đủ tiền thuế, tiền phạt theo quyết định hành chính thuế. Tuy nhiên, Khoản 3 Điều 125 Luật Quản lý thuế năm 2019 đã cho phép CQT áp dụng linh hoạt biện pháp cưỡng chế trích tiền từ tài khoản của đối tượng bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế tại Kho bạc Nhà nước, ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng khác; phong tỏa tài khoản và khấu trừ một phần tiền lương hoặc thu nhập căn cứ vào tình hình thực tế phần nào khắc phục được tình trạng trên. Nhưng với các biện pháp cưỡng chế còn lại, CQT vẫn phải thực hiện nguyên tắc áp dụng lần lượt, không áp dụng được biện pháp cưỡng chế trước thì mới chuyển sang áp dụng biện pháp cưỡng chế sau. Điều này cho thấy, các nhà làm luật đã có sự chuyển biến rõ rệt về tư duy khi cho phép cán bộ, CQT chủ động, sáng tạo lựa chọn áp dụng biện pháp cưỡng chế phù hợp tùy thuộc vào hoàn cảnh thực tế mà không bắt buộc họ đi theo một khuôn mẫu nguyên tắc sẵn có nữa. Sự thay đổi này là cần thiết nhằm nâng cao khả năng thu hồi nợ thuế, tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ thuế dễ dàng đưa các quy định vào thực thi.
Trên thực tế, các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính là khá nghiêm khắc vì một khi được áp dụng nó ảnh hưởng trực tiếp đến tài sản, hoạt động kinh doanh của đối tượng bị cưỡng chế nhưng khi phân tích kĩ các quy định này có thể thấy một số vướng mắc như sau:
Một là biện pháp trích tiền từ tài khoản của đối tượng bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế tại Kho bạc Nhà nước, ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng khác; phong tỏa tài khoản chỉ thực sự có ý nghĩa khi số dư trong tài khoản của đối tượng bị cưỡng chế đủ để thanh toán toàn bộ các nghĩa vụ thuế TNCN và NNT có tinh thần tự giác, trung thực, tích cực phối hợp giảm bớt tổn thất nguồn thu ngân sách do mình gây ra.
Hai là biện pháp khấu trừ một phần tiền lương hoặc thu nhập khi đưa vào
triển khai tương đối hiệu quả đối với những NNT đang làm việc theo biên chế hoặc hợp đồng từ 06 tháng trở lên hoặc đang được hưởng trợ cấp hưu trí, mất sức là người làm công ăn lương, người có thu nhập từ nguồn mà CQT kiểm soát được [19]. Tuy nhiên trên thực tế, nhiều cá nhân nợ thuế chuyển chỗ làm, nơi sinh sống, khiến CQT rất khó kiểm soát để thu nợ và áp dụng biện pháp cưỡng chế.
Ba là biện pháp thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, giấy phép hành nghề. Người có thẩm quyền trong lĩnh vực quản lý thuế không được trực tiếp thực hiện việc thu hồi mà phải yêu cầu cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền thu hồi theo quy định. Thực tế cho thấy, đây là biện pháp cưỡng chế mạnh nhất với mỗi NNT, vì giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hay giấy phép hành nghề là “cần câu” tạo ra thu nhập. Nếu lựa chọn áp dụng biện pháp này thì sẽ tước đi nguồn tạo ra thu nhập của NNT nên nó ít khi được sử dụng, bởi mục đích của việc cưỡng chế sẽ phần nào đó khó để đạt được hiệu quả triệt để, vừa thu được nợ thuế mà vẫn răn đe được NNT [46].
Nhìn chung, cưỡng chế nợ thuế được quy định khá đầy đủ, chi tiết trong Luật Quản lý thuế năm 2019. Các quy định về cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về thuế không có nhiều sự thay đổi so với Luật Quản lý thuế năm 2016 sửa đổi, bổ sung, chi tiết nội dung các biện pháp cưỡng chế hầu như được giữ nguyên chỉ có sự thay đổi về nguyên tắc áp dụng. Mỗi biện pháp cưỡng chế nêu trên dù vẫn còn một vài điểm vướng mắc nhỏ trên thực tiễn nhưng vẫn đạt hiệu quả tốt khi được cơ quan quản lý thuế áp dụng linh hoạt, kịp thời với đúng nhóm đối tượng phù hợp.
2.1.8. Về ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý thuế TNCN
Một trong những điểm mới quan trọng nhất của Luật Quản lý thuế năm 2019 là việc bổ sung riêng một điều luật quy định về giao dịch điện tử trong lĩnh vực thuế nói chung tại Điều 8 và áp dụng với cả quản lý thuế TNCN nói riêng. Theo đó, giao dịch điện tử đối với thuế TNCN là nghĩa vụ bắt buộc đối với NNT đủ điều kiện. Đồng thời, khẳng định nguyên tắc đã giao dịch điện tử thì không phải thực hiện các hình thức giao dịch khác; quy định rõ trách nhiệm của cơ quan quản lý thuế trong tổ chức hệ thống thông tin điện tử; bổ sung quy định thời hạn nộp hồ sơ thuế trong
trường hợp gặp sự cố kỹ thuật… Quy định mới này giúp tận dụng tối đa thành tựu CNTT hiện đại vào việc thực hiện các hồ sơ, thủ tục hành chính thuế, từ đó, giúp giảm chi phí in ấn hồ sơ, giấy tờ...
Nhiều quy định hiện nay khuyến khích và cho phép các chủ thể sử dụng phương thức điện tử bên cạnh các phương thức truyền thống, điển hình như: NNT có quyền được tra cứu, xem, in toàn bộ chứng từ điện tử mà mình đã gửi đến cổng thông tin điện tử của cơ quan quản lý thuế và được sử dụng chứng từ điện tử trong giao dịch với cơ quan quản lý thuế và cơ quan, tổ chức có liên quan theo quy định tại Điều 16. Bên cạnh đó, đẩy mạnh việc kết nối thông tin giữa cơ quan quản lý nhà nước và cơ quan thuế để nhận hồ sơ đăng ký thuế và cấp MST theo cơ chế một cửa liên thông qua cổng thông tin điện tử được thực hiện theo quy định của pháp luật có liên quan theo Khoản 4 Điều 31. Ngoài ra cơ quan quản lý thuế phải xây dựng hệ thống CNTT đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa công tác quản lý thuế, tiêu chuẩn kỹ thuật, định dạng dữ liệu về hóa đơn, chứng từ điện tử, hồ sơ thuế để thực hiện giao dịch điện tử giữa người nộp thuế với cơ quan quản lý thuế và giữa cơ quan quản lý thuế với cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan theo quy định tại Khoản 3 Điều 100.
Tuy dịch vụ điện tử được triển khai tạo ra nhiều lợi ích cho cả NNT và CQT nhưng một số quy định về triển khai ứng dụng CNTT trong lĩnh vực thuế vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn. Bởi ứng dụng nộp thuế điện tử còn chưa được hoàn thiện, thường xuyên phải tạm ngừng để bảo trì hệ thống, trong khi công nghệ phát triển từng ngày mà thời gian để xây dựng dự án nâng cấp ứng dụng sao cho phù hợp lại tiêu tốn khá nhiều thời gian. Điều này tạo ra ảnh hưởng đáng kể đến việc áp dụng CNTT ngành thuế nói chung, vì khi một ứng dụng được pháp luật thông qua cũng là lúc nó trở nên lỗi thời. Pháp luật cũng chưa có quy định với trường hợp nếu cổng thông tin của cơ quan nhà nước gặp sự cố trong ngày cuối của thời hạn nộp hồ sơ thuế TNCN hay nộp thuế TNCN khiến NNT không thể hoàn thành thủ tục đúng hạn, thì thời điểm hồ sơ được phản hồi xác nhận đã nộp có được coi là đúng thời hạn hay không. Cho nên cần quy định rõ cách thức xử lý trong trường hợp này để xác lập trách nhiệm và nghĩa vụ của các bên, hạn chế tranh chấp có thể xảy ra.