Bổ Sung Quy Định Về Quản Lý Thuế Tncn Đối Với Thu Nhập Từ Chuyển Nhượng Bất Động Sản

đang học đại học, cao đẳng, học nghề nữa hay không hay đã bỏ học, kết thúc việc học. Cho nên, phải quy định chặt chẽ các thủ tục, điều kiện cần có liên quan đến việc xác định người phụ thuộc của đối tượng nộp thuế nhằm giới hạn những trường hợp được hưởng số tiền giảm trừ người phụ thuộc, khắc phục tình trạng thất thu ngân sách khiến việc thực hiện công tác quản lý nhẹ nhàng hơn mà vẫn đảm bảo tính công bằng.

Khi xây dựng Luật Thuế TNCN 2007, thu nhập từ lãi tiền gửi tại tổ chức tín dụng tại Khoản 7 Điều 4 và thu nhập từ kiều hối tại Khoản 8 Điều 4 được Nhà nước quy định là thu nhập miễn thuế. Trước đây, hình thức gửi tiền vào tổ chức tín dụng không bị đánh thuế TNCN để khuyến khích người dân gửi tiền tiết kiệm, vừa được đảm bảo an toàn vừa có thể sinh lời. Tuy nhiên, hiện nay phần lớn những người có tiền gửi ngân hàng đều là đối tượng có thu nhập khá trở lên, nhiều người có thu nhập cao cũng lựa chọn hình thức đầu tư này dù lãi suất thấp nhưng số lãi phát sinh lại không phải nộp thuế. Còn kiều hối là thu nhập từ lao động làm việc ở nước ngoài gửi về Việt Nam, thời điểm đó mặt bằng thu nhập của người dân rất thấp, đa phần chỉ đủ trang trải cuộc sống nên khoản thu nhập này được Nhà nước quy định miễn thuế để thúc đẩy công dân xuất khẩu lao động gửi tiền về kinh doanh, đầu tư, gia tăng dòng tiền. Nhưng sau gần 20 năm xây dựng và phát triển đất nước ta đã có sự thay đổi vượt bậc so với thời điểm những năm 2000 nên việc tiếp tục để kiều hối và lãi tiền gửi tại các tổ chức tín dụng là khoản thu nhập được miễn thuế là không còn phù hợp, đi ngược lại với thông lệ quốc tế. Vì vậy, cần phải loại bỏ hai khoản thu nhập này ra khỏi diện được miễn thuế để bổ sung nguồn thu vào NSNN, khuyến khích đầu tư, kinh doanh, thúc đẩy phát triển nền kinh tế vĩ mô.

Bên cạnh đó, nên mở rộng phạm vi các khoản thu nhập chịu thuế chưa từng được quy định trước đây như khoản thu nhập của cá nhân kinh doanh liên quan đến lĩnh vực thương mại điện tử, kinh doanh online, các dịch vụ liên quan đến mạng xã hội… Việc bổ sung nguồn phát sinh thu nhập chịu thuế giúp CQT bao quát được toàn bộ các loại thu nhập chịu thuế để không bỏ sót bất cứ nguồn thu mới phát sinh nào có đặc trưng thuộc diện chịu thuế, cũng như đảm bảo công bằng giữa đối tượng

nộp thuế kiếm được thu nhập theo phương thức truyền thống với đối tượng kiếm được thu nhập theo phương thức điện tử trong bối cảnh thương mại điện tử phát triển như hiện nay.

3.1.3. Bổ sung quy định về quản lý thuế TNCN đối với thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản

Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản là một trong số những nguồn thu lớn trong tổng số nguồn thu từ thuế TNCN, tuy nhiên khoản thu nhập này cũng là khoản thu thường bị gian lận nhất. Theo quy định của pháp luật về thuế và pháp luật về đất đai, cán bộ quản lý thuế chỉ có quyền tiếp nhận tờ khai thuế và hồ sơ xét miễn thuế mà không có quyền xác minh tính chính xác của thông tin được kê khai trong những giấy tờ này. Điều này dẫn đến thực trạng NNT kê khai giá tính thuế đối với thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản rẻ hơn gấp nhiều lần so với thực tế hoặc cam kết chỉ có một nhà ở, đất ở duy nhất tại địa phương này nhưng vẫn có nhiều bất động sản ở địa phương khác. Tình trạng chuyển nhượng, nhận thừa kế, quà tặng là bất động sản nhiều lần giữa các thành viên trong gia đình để được miễn thuế TNCN cũng diễn ra khá phổ biến.

Như vậy, muốn quản lý hiệu quả thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản, trước hết UBND cấp tỉnh cần có trách nhiệm xây dựng, ban hành bảng giá nhà, đất sát với giá trị chuyển nhượng thực tế trên thị trường và cập nhật thường xuyên theo chu kỳ để đảm bảo tính chính xác nhưng vẫn phải phù hợp với quy định của Luật Đất đai. Đây là giải pháp chủ chốt nhằm mục đích hạn chế tình trạng kê khai giá chuyển nhượng thấp hơn so với giá thực tế. Ngoài ra, bổ sung quyền tra cứu, xác minh thông tin cho cán bộ quản lý thuế cũng như cán bộ ngành tài nguyên – môi trường để tăng khả năng kiểm soát tránh thất thoát nguồn thu tài chính từ đất; cùng với đó, cần nâng cấp hệ thống thông tin điện tử quản lý nội bộ giữa CQT và cơ quan tài nguyên – môi trường để có thể tra cứu thông tin NNT trên phạm vi toàn quốc chứ không chỉ trong phạm vi cấp tỉnh như hiện nay. Điều này giúp loại bỏ việc khai man nhà ở, đất ở duy nhất để được miễn thuế TNCN.

3.1.4. Xây dựng cơ chế quản lý theo hướng thắt chặt kiểm soát, tăng cường giám sát về nguồn gốc, lượng thu nhập nhận được trên thực tế đối với các nguồn thu

Trên thực tế, rất nhiều trường hợp đối tượng nộp thuế có thu nhập từ nhiều nguồn khác nhau mà pháp luật không thể kiểm soát được hết, ví dụ như ca sĩ, diễn viên, cá nhân kinh doanh online, người dẫn chương trình, những người có tầm ảnh hưởng trên mạng xã hội… Nguyên nhân phát sinh tình trạng này là do Luật thuế TNCN đã lỗi thời, không còn bao quát được hết các khoản thu nhập phải chịu thuế TNCN, nhiều khoản thu nhập chưa được quy định; đồng thời, Luật quản lý thuế chưa có cơ chế quản lý chặt chẽ, hiệu quả với nhóm đối tượng có nhiều nguồn thu nhập.

Vì thế, ngoài việc bổ sung những khoản thu nhập chưa được quy định vào diện chịu thuế, cá nhân kinh doanh online phải đăng ký kinh doanh và đăng ký thuế tương tự cá nhân kinh doanh theo phương thức truyền thống. Tiếp tục thực hiện cơ chế khấu trừ tại nguồn nhằm kiểm soát hiệu quả ngay từ khi phát sinh thu nhập đối với những đối tượng có nhiều nguồn thu khác nhau thông qua biện pháp: bắt buộc khai báo tình hình chi trả thu nhập, bắt buộc thanh toán qua ngân hàng trong một số điều kiện, kiểm tra sổ sách kế toán và các hoạt động kinh doanh tại chỗ…

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 118 trang tài liệu này.

Ngoài ra, nên bổ sung quy định cho phép CQT thành lập đội giám sát, rà soát định kì, phối hợp với cơ quan liên quan khi cần thiết để nắm được lượng doanh thu, thu nhập cơ bản những cá nhân này nhận được từ đó giúp giảm thiểu hành vi không khai báo hoặc khai báo không đúng của NNT. Nhóm giải pháp này vừa giúp CQT tăng cường kiểm soát tài sản định kỳ, thắt chặt giám sát từ nguồn phát sinh thu nhập cho đến bước kê khai, tính nộp thuế; vừa thúc đẩy công tác quản lý thuế TNCN, vừa hỗ trợ chiến dịch phòng, chống tham nhũng.

3.1.5. Hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính từ đó đưa ra chế tài xử phạt đủ sức răn đe đối với các đối tượng có hành vi vi phạm pháp luật thuế

Quản lý thuế thu nhập cá nhân theo pháp luật Việt Nam qua thực tiễn Thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn - 12

Hiện nay, tình trạng cố tình khai man thu nhập hoặc giấu thu nhập để giảm bớt khoản thuế TNCN phải nộp diễn ra khá phổ biến, đa dạng dưới nhiều hình thức nhưng hệ thống chế tài hiện tại ở Việt Nam chưa bao quát được hết các trường hợp

cần xử phạt, nếu có quy định thì mức phạt cũng chưa đủ sức răn đe. Trong khi đó, Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2017 sửa đổi, bổ sung đã xuất hiện những lỗ hổng mà Luật quản lý thuế năm 2019 lại mới có hiệu lực từ ngày 01/07/2020 chưa được ban hành đầy đủ các văn bản hướng dẫn thi hành. Vì thế, cần nhanh chóng đưa ra văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn chi tiết vấn đề xử phạt vi phạm về thuế, các quy định xử phạt cần phải phù hợp với từng hành vi nhưng vẫn có “sức nặng” vừa đủ, dự liệu được càng nhiều hành vi vi phạm có thể phát sinh càng tốt.

Đặc biệt, việc bổ sung các quy định xử phạt đối với vi phạm về thuế liên quan đến giao dịch thương mại điện tử là vô cùng quan trọng trong thời đại công nghệ như hiện nay. Đối với các trường hợp có dấu hiệu tội phạm nghiêm trọng cần chuyển ngay hồ sơ cho công an, đề nghị phối hợp xử lý. Một cơ chế xử phạt hiệu quả sẽ vừa có khả năng giáo dục, nâng cao nhận thức NNT, vừa xử phạt được đúng người đúng tội giúp nâng cao mức độ tuân thủ của NNT trong tương lai.

3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật quản lý thuế TNCN

3.2.1. Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về thuế TNCN đối với NNT và cán bộ quản lý thuế TNCN

Đối với các cán bộ quản lý thuế TNCN

Tổng cục Thuế cần liên tục trao đổi, cập nhật thông tin, tuyên truyền các chính sách quản lý thuế TNCN nói riêng và các quy định về quản lý thuế nói chung mới được sửa đổi, bổ sung với các CQT cấp dưới; nếu cần thiết, có thể tổ chức tập huấn định kì đối với những cán bộ có trách nhiệm quản lý trực tiếp mảng thuế TNCN để không ngừng tiếp thu thêm kiến thức mới phục vụ cho công việc. Tất cả những hoạt động này có thể thông qua phương thức trực tuyến trên phạm vi toàn quốc. Do đội ngũ cán bộ công chức thuế là lực lượng nòng cốt, có hiểu biết sâu nhất về nghiệp vụ thuế TNCN nên việc phổ biến pháp luật về quản lý thuế với đối tượng này là vô cùng quan trọng và cần thiết.

CQT mỗi địa phương cần đổi mới, phát triển đa dạng phương thức tuyên truyền ở tất cả các khâu, các bộ phận như: công khai tại trụ sở CQT các cấp, đăng tải trên các phương tiện truyền thông đại chúng, cập nhật thông báo trên trang thông

tin điện tử ngành thuế, gửi tin nhắn tuyên truyền đến số điện thoại cá nhân, sáng tác bài hát tuyên truyền... Trên cơ sở đó, các Cục Thuế có trách nhiệm phân công rõ nhiệm vụ tăng cường phổ cập Luật Thuế TNCN và Luật Quản lý thuế thường xuyên phù hợp với đặc thù từng địa phương, để mỗi cá nhân đều hiểu được ý nghĩa, vai trò của thuế TNCN đối với sự phát triển của xã hội và coi việc nộp thuế là trách nhiệm, nghĩa vụ của một công dân yêu nước.

Đối với người nộp thuế TNCN

Cũng như các chính sách kinh tế – xã hội khác, chính sách quản lý thuế TNCN muốn áp dụng thành công cần phải được đông đảo các tầng lớp dân cư trong xã hội thừa nhận, ủng hộ và nhận thức đúng về bản chất. Do đó, cần tiếp tục phổ biến, giáo dục pháp luật theo hướng làm thay đổi cách nhìn nhận và nhận thức của nhân dân đối với pháp luật về thuế TNCN. Nếu hiểu được thái độ của người dân đối với thuế TNCN là gì, họ hiểu và tiếp cận sắc thuế này như thế nào, thuế TNCN có vai trò gì trong cuộc sống của họ... thì khi thực hiện công tác tuyên truyền cán bộ thuế sẽ biết cần phân tích ý nghĩa trọng tâm ở nội dung nào, phải lựa chọn cách thức biểu đạt gì để giao tiếp với NNT đạt hiệu quả nhất.

Khuyến khích nhân dân tích cực tham gia đóng góp ý kiến vào các dự án luật trong lĩnh vực thuế nói chung và với quản lý thuế TNCN nói riêng, bởi việc này có tác dụng tuyên truyền, phổ biến, giáo dục rất hiệu quả. Thông qua lấy ý kiến trong quá trình xây dựng, ban hành và thực thi pháp luật, Nhà nước vừa nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của người dân, vừa tác động đến việc thực hiện hành vi pháp lý của họ trong đời sống thường nhật. Thái độ chấp hành hay không chấp hành của người dân đối với pháp luật là hệ quả phát sinh từ mức độ am hiểu pháp luật của mỗi cá nhân. Con người chỉ chấp hành pháp luật tự giác và nghiêm chỉnh khi họ có nhận thức đúng đắn đối với quy định của pháp luật.

Các CQT nên phối hợp với cơ quan truyền thông của địa phương tổ chức tuyên truyền, thực hiện quy định pháp luật thuế, xử lý vi phạm pháp luật kết hợp với công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Ví dụ như nêu gương các tổ chức, cá nhân thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế, đồng thời công khai thông tin các doanh nghiệp

chây ì, dây dưa nợ thuế. Điều đó phần nào giúp cho đối tượng vi phạm hiểu rõ nội dung, ý nghĩa của các quy định được áp dụng cũng như ý thức sâu sắc về quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình, từ đó tự nguyện chấp hành nghiêm túc pháp luật, hình thành niềm tin pháp luật.

3.2.2. Ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động quản lý thuế và hoàn thiện các quy định của pháp luật về dịch vụ thuế điện tử

Ứng dụng CNTT vào hoạt động quản lý thuế

Ngành thuế cần phát triển các ứng dụng CNTT đáp ứng yêu cầu triển khai các quy trình, chính sách mới và kế hoạch sắp xếp, sáp nhập các CCT cấp huyện thành chi cục thuế khu vực. Triển khai hạ tầng kỹ thuật CNTT để đảm bảo CCT khu vực đi vào hoạt động ổn định.

Không ngừng đầu tư, cải thiện các phần mềm hỗ trợ nghiệp vụ sẵn có cũng như tiếp tục ứng dụng công nghệ trong quá trình quản lý thuế nói chung và quản lý thuế TNCN nói riêng nhằm cải cách hành chính các thủ tục về thuế, tạo điều kiện thuận lợi cho NNT, tăng tính minh bạch trong công tác quản lý giám sát của ngành, giảm tiếp xúc trực tiếp giữa NNT và cán bộ thuế; nâng cao hiệu lực, hiệu quả phòng, chống tiêu cực trong công tác quản lý thuế.

Đẩy mạnh ứng dụng CNTT một cách toàn diện trong công tác quản lý, cung cấp dịch vụ công trực tuyến như kê khai, nộp thuế điện tử, hoàn thuế điện tử, hóa đơn điện tử, trước bạ điện tử ở từng địa phương; phối hợp với các cơ quan, ban ngành để liên thông, kết nối cơ sở dữ liệu nhằm rút ngắn thời gian giải quyết thủ tục hành chính cho NNT. Nhưng vẫn phải liên tục giám sát an toàn thông tin mạng của hệ thống CNTT để đảm bảo duy trì hoạt động các dịch vụ công trực tuyến thuộc thẩm quyền quản lý và tổ chức thực hiện của Tổng cục Thuế. Những cảnh báo về lỗ hổng bảo mật, các dấu hiệu tấn công mạng trên hệ thống cần được theo dõi, phân tích liên tục để có phương án xử lý kịp thời nhằm ngăn chặn nguy cơ tấn công ngay từ đầu.

Hoàn thiện thêm các quy định của pháp luật về các dịch vụ thuế điện tử

Dịch vụ thuế điện tử muốn triển khai có hiệu quả cần phải có một khuôn khổ pháp luật tương ứng. Khung pháp lý này phải bao gồm hệ thống các văn bản quy

phạm pháp luật, các văn bản hướng dẫn về quy trình, thủ tục trong áp dụng dịch vụ thuế điện tử. Hệ thống pháp luật hỗ trợ dịch vụ thuế điện tử phải được soạn thảo, ban hành kịp thời, đầy đủ, toàn diện, đồng bộ, thống nhất, ổn định, rõ ràng, minh bạch, khả thi; phải kết hợp vận dụng các tiêu chuẩn chung đã được thừa nhận trên phạm vi quốc tế, giữa luật với các văn bản hướng dẫn thi hành luật phải nhất quán. Đặc biệt, việc áp dụng dịch vụ thuế điện tử có liên quan đến hệ thống trao đổi dữ liệu điện tử, do đó khung pháp lý cũng phải đưa ra những quy định về việc bảo mật thông tin, không chỉ đối với nhà cung cấp mạng mà cả đối với chính CQT và NNT.

3.2.3. Tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật về thuế TNCN

Đối với hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế

Việc thanh tra, kiểm tra không chỉ góp phần nâng cao ý thức NNT, đảm bảo không để xảy ra tình trạng chồng chéo, gây phiền hà cho doanh nghiệp, mà còn giúp CQT kịp thời chấn chỉnh, xử lý những trường hợp NNT kê khai chưa đúng quy định, kê khai không đầy đủ nội dung cần thiết. Để hoàn thành nhiệm vụ đề ra, ngành Thuế tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng CNTT vào công tác thanh tra, kiểm tra, đặc biệt trong việc xây dựng cơ sở dữ liệu các doanh nghiệp có giao dịch liên kết; ghi nhật ký thanh tra, kiểm tra của các đoàn thanh tra, kiểm tra và phân tích, xác định đối tượng cần kiểm tra chống thất thu ngân sách.

Đẩy mạnh kiểm tra, giám sát kê khai thuế TNCN của NNT ngay từ đầu năm bằng cách tập trung kiểm tra các tờ khai có sự mâu thuẫn, những nguồn thu nhập có dấu hiệu tiềm ẩn kê khai không đủ thuế, rà soát tình hình tạm nộp thuế TNCN để chủ động đôn đốc NNT nộp đúng với thực tế phát sinh, kiên quyết xử phạt đối với các trường hợp vi phạm quy định về kê khai thuế, thực hiện ấn định thuế đối với NNT vi phạm pháp luật về thuế TNCN theo đúng quy định của Luật Quản lý thuế. Đồng thời, tăng cường công tác quản lý hoàn thuế ngay từ đầu năm, đảm bảo việc hoàn thuế đúng đối tượng, theo đúng chính sách thuế của Nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi cho NNT. Kiểm soát chặt chẽ số chi hoàn thuế TNCN, đảm bảo thực hiện chi hoàn thuế TNCN theo đúng quy định của pháp luật.

Tăng cường giám sát hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế vừa đánh giá được thực trạng thanh, kiểm tra và ý thức của các thanh tra viên, kiểm tra viên, vừa hạn chế tình trạng lạm quyền để trục lợi khi thi hành công vụ. Vì thanh tra, kiểm tra là hoạt động có tính quyền lực nên có thể có những cá nhân phẩm chất đạo đức kém lợi dụng điều này để hạch sách, đe dọa NNT nhằm mục đích thu lợi về cho bản thân.

Đối với hoạt động xử lý vi phạm pháp luật về quản lý thuế TNCN

Hoạt động xử lý vi phạm pháp luật thuế là hệ quả của công tác thanh tra, kiểm tra thuế. Vì thế để có thể xử lý hiệu quả các vi phạm thì trước hết cần chú trọng phân loại đối tượng, thu thập thông tin và giám sát thường xuyên với các đối tượng thuộc diện phải thanh tra, kiểm tra để có thể phát hiện kịp thời các hành vi vi phạm.

Trên thực tế, các vụ việc vi phạm pháp luật về thuế ngày một nhiều và ngày càng tinh vi trong khi số lượng được phát hiện và xử lý vẫn còn khá khiêm tốn, mà CQT lại chưa có thẩm quyền đủ mạnh để xử lý triệt để các vi phạm. Vì thế, cần thiết phải mở rộng thêm quyền điều tra, xử lý cho cơ quan quản lý thuế để phát hiện kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật về thuế nhằm đưa ra biện pháp xử lý nghiêm minh với người vi phạm và đủ tính răn đe đối với những NNT khác. Đồng thời cũng nâng cao hơn nữa hiệu quả của công tác đấu tranh, ngăn chặn các hành vi có dấu hiệu hình sự.

Cần xử phạt nghiêm với từng vụ việc vi phạm mới có thể tối ưu hóa tác dụng giáo dục, răn đe với cộng đồng NNT nhưng cũng nên cân nhắc mức xử phạt phù hợp để đảm bảo mục đích chính là giáo dục. Nếu xử phạt quá nhẹ thì không đảm bảo được tính răn đe dẫn đến tình trạng coi thường pháp luật nhưng xử phạt quá nặng lại khuyến khích việc che giấu vi phạm hay tuân thủ pháp luật một cách chống đối, cũng như nạn tham nhũng.

Không thể có được một quy trình xử lý vi phạm cho từng trường hợp nên việc ấn định mức phạt tất cả là dựa trên ý chí chủ quan của người có thẩm quyền, để hạn chế điều này thì việc lựa chọn người có phẩm chất đạo đức giải quyết công việc là vô cùng quan trọng. Ngoài ra, phải có biện pháp khống chế được quyền lực của những cá nhân, cơ quan có trách nhiệm phòng, chống tham nhũng, bởi đây là những

Xem tất cả 118 trang.

Ngày đăng: 29/03/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí