Một Số Hạn Chế Trong Quá Trình Thực Hiện Các Quy Định Pháp Luật Về Quản Lý Thuế Tncn Tại Chi Cục Thuế Thành Phố Bắc Kạn, Tỉnh Bắc Kạn Và

thuế phải nộp thêm thuộc diện phải thực hiện quyết toán thuế tại cơ quan thuế nhưng chưa thực hiện quyết toán. Bên cạnh đó, cũng thành lập Tổ kiểm tra điện tử để kiểm tra Hồ sơ khai thuế TNCN bằng phương thức điện tử, để cung cấp danh sách cá nhân có nhiều nguồn thu nhập cho các đoàn kiểm tra tương ứng với các đơn vị chi trả thu nhập để phục vụ cho công tác thanh tra, kiểm tra. Qua đó phát hiện các đoàn kiểm tra thực hiện kiểm tra thuế TNCN từ tiền lương, tiền công, yêu cầu các đơn vị giải trình chứng minh nguồn thu nhập của các lao động.

CCT thành phố Bắc Kạn đặc biệt quan tâm đến công tác kiểm tra hồ sơ khai thuế tại CQT. Công tác kiểm tra, giám sát hồ sơ khai thuế tại CQT đối với các doanh nghiệp tại CCT đã giảm thiểu rất lớn các trường hợp kê khai sai và có dấu hiệu gian lận liên quan đến thuế TNCN của các doanh nghiệp, góp phần chống thất thu NSNN qua việc kê khai thuế; ngăn chặn và xử lý kịp thời các trường hợp vi phạm về thuế, sử dụng hoá đơn bất hợp pháp; nâng cao tính tự giác tuân thủ pháp luật thuế của các doanh nghiệp. Hàng năm 100% số hồ sơ khai quyết toán thuế đều được kiểm tra tại trụ sở CQT do số lượng hồ sơ khai quyết toán thuế TNCN trên địa bàn không nhiều.

Về cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về thuế TNCN

Công tác cưỡng chế nợ thuế TNCN cũng là một trong những công tác được lãnh đạo CCT đặc biệt quan tâm nhằm đảm bảo số thu vào ngân sách đúng thời hạn, công tác này được thực hiện theo Quy trình quản lý thu nợ và cưỡng chế nợ thuế. CCT đã xây dựng kế hoạch, giao chỉ tiêu thu nợ thuế đến các đội thuế, chỉ đạo các cán bộ quản lý thuế tăng cường áp dụng các biện pháp đôn đốc thu nợ và cưỡng chế nợ thuế. Bên cạnh đó, thực hiện việc phân loại và phân tích nguyên nhân nợ để có biện pháp xử lý phù hợp và kịp thời theo quy định của pháp luật. Trên cơ sở số liệu nợ thuế đã được xác nhận, bộ phận thu nợ và cưỡng chế nợ thuế tiến hành mời NNT lên làm việc, thông báo nợ thuế, thuyết phục NNT đăng ký thời hạn nộp, xử phạt chậm nộp, báo cáo UBND để chỉ đạo các cơ quan chức năng phối hợp đôn đốc, thu hồi nợ đọng và thực hiện các biện pháp cưỡng chế nợ thuế...

Việc theo dõi nợ được thực hiện đầy đủ, tuy nhiên công tác phối hợp rà soát, đối chiếu số liệu, điều chỉnh số nợ ảo, phân loại các khoản nợ, đề nghị xóa nợ còn chưa triệt để. Nợ thuế TNCN chủ yếu là của cá nhân kinh doanh, nhóm đối tượng này chưa có ý thức tự giác chấp hành các quy định của pháp luật thuế, chây ỳ nợ thuế làm ảnh hưởng đến việc thực hiện chỉ tiêu giảm nợ thuế; đồng thời, vẫn có một số khoản nợ ảo, nợ quá thời hạn chưa được đối chiếu, xử lý được kịp thời.

2.2.2.2. Một số hạn chế trong quá trình thực hiện các quy định pháp luật về quản lý thuế TNCN tại Chi cục thuế Thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn và nguyên nhân của những hạn chế

Một số hạn chế, bất cập

Một là số thuế TNCN thực thu hàng năm đều chưa đạt mức dự toán là không tương xứng với khả năng và điều kiện phát triển kinh tế của thành phố do chưa có biện pháp hiệu quả khai thác nguồn thu. Ở một số lĩnh vực, ngành nghề như: ăn uống, vận tải... vẫn còn xảy ra tình trạng gian lận cả về doanh thu lẫn tiền thuế; các doanh nghiệp chưa khai đúng số tiền lương, tiền công trả cho người lao động dẫn đến thất thu thuế TNCN.

Hai là việc xác định doanh thu tính thuế đối với cá nhân kinh doanh trong một số trường hợp còn chưa sát với thực tế phát sinh. Hơn nữa, việc quản lý thu nhập đối với đối tượng có nhiều nguồn thu nhập ở trên địa bàn chưa thực sự triệt để vì nhiều trường hợp CQT không nắm được thu nhập thực sự của họ là bao nhiêu. Thu nhập từ dự hội nghị, nhận biếu xén đối với các cán bộ thuộc khu vực Nhà nước, thu nhập của các cá nhân hành nghề tự do không thuộc diện điều tiết của thuế thu nhập doanh nghiệp, thu nhập của những người hoạt động nghệ thuật, thu nhập từ các hoạt động giảng dạy, luyện thi … vẫn chưa có biện pháp kiểm soát. Do tính chất các khoản thu nhập không đều đặn, cùng với sự buông lỏng của các cơ quan chi trả thu nhập đối với việc khấu trừ trước khi chi trả đã tạo điều kiện cho các khoản thu nhập này trên thực tế nằm ngoài diện phải nộp thuế. Bản thân CQT cũng chưa kiểm tra sát sao việc khấu trừ thuế của các đơn vị chi trả thu nhập, do vậy càng khuyến khích các đơn vị chi trả thu nhập lãng quên nhiệm vụ của mình.

Ba là đối với quản lý thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản, hầu như CQT chưa kiểm soát được tính chân thực trong kê khai, tính thuế đối với hoạt động này do NNT tự kê khai. CQT chỉ nhận bản kê khai và kiểm tra việc tính thuế có chính xác không rồi căn cứ vào tờ khai để tiến hành thu thuế. Bảng giá đất theo quy định của UBND mỗi tỉnh hiện có sự chênh lệch rất lớn với thực tế dẫn đến việc kê khai giá chuyển nhượng bất động sản hoàn toàn không chính xác làm thất thu một phần tiền thuế. Bên cạnh đó, việc áp dụng hai mức thuế suất khác nhau là 2% và 25% để tính thuế với hoạt động chuyển nhượng bất động sản tạo sự chênh lệch quá lớn và không phù hợp. Điều này cho thấy chính sách pháp luật thuế đối với hoạt động chuyển nhượng bất động sản hiện nay chưa cụ thể, rõ ràng trong căn cứ tính thuế làm ảnh hướng đến NNT, gây lung túng cho CQT khi thực hiện; đồng thời dễ làm phát sinh tình trạng tiêu cực, sách nhiễu.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 118 trang tài liệu này.

Bốn là về công tác xét miễn, giảm thuế TNCN, mặc dù những hồ sơ thủ tục liên quan đến miễn, giảm thuế TNCN luôn được cán bộ quản lý kiểm soát chặt chẽ theo quy định sau đó lại được kiểm tra nội bộ, thanh tra định kì mỗi năm tránh tình trạng NNT cấu kết với cán bộ thuế để trốn tránh nghĩa vụ thuế. Nhưng vẫn còn tổn tại nhiều trường hợp NNT kê khai, cam kết không đúng sự thật do luật không quy định chặt chẽ mà CQT, cán bộ quản lý thuế không thể và cũng không được trao quyền xác minh thông tin được cung cấp có đúng hay không. Hệ thống thông tin quản lý của ngành thuế còn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn, điển hình trường hợp cam kết một nhà ở đất ở, duy nhất, cả cán bộ quản lý thuế và cơ quan tài nguyên – môi trường đều không thể tra cứu được tính chính xác do hệ thống quản lý điện tử mỗi ngành hiện nay chỉ có thể tìm kiếm dữ liệu trong phạm vi tỉnh mà không thể tra cứu trên phạm vi toàn quốc. Đây chính là kẽ hở trong quy định của pháp luật nhiều người lợi dụng để không phải nộp thuế TNCN.

Năm là công tác phối hợp rà soát, đối chiếu số liệu, điều chỉnh số nợ ảo, phân loại các khoản nợ, đề nghị xóa nợ còn chưa triệt để. Nợ thuế TNCN chủ yếu là của cá nhân kinh doanh, nhóm đối tượng này chưa có ý thức tự giác chấp hành các quy định của pháp luật thuế, chây ỳ nợ thuế làm ảnh hưởng đến việc thực hiện chỉ

Quản lý thuế thu nhập cá nhân theo pháp luật Việt Nam qua thực tiễn Thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn - 11

tiêu giảm nợ thuế; đồng thời, vẫn có một số khoản nợ ảo, nợ quá thời hạn chưa được đối chiếu, xử lý được kịp thời.

Sáu là việc chấp hành kỷ luật, kỷ cương hành chính ở một số Đội thuế có lúc, có nơi chưa nghiêm. Một vài công chức thuế còn hạn chế về chuyên môn, năng lực tiếp cận, sử dụng CNTT, phương pháp quản lý thuế mới tiên tiến, hiện đại; xử lý công việc còn lúng túng; kỹ năng giao tiếp, ứng xử với NNT trong một số trường hợp còn nóng vội, chưa linh hoạt, chưa cải tiến được tác phong làm việc; hỗ trợ, hướng dẫn NNT chưa tận tình tạo cảm giác đang gây khó khăn, phiền hà khiến NNT hiểu nhầm, ảnh hưởng đến chất lượng phục vụ.

Bảy là ứng dụng CNTT mặc dù đã tạo ra nhiều thuận lợi cho công tác quản lý thuế TNCN nhưng hệ thống phần mềm và dung lượng máy chủ của ngành thuế hiện chưa liên kết được thông tin để kiểm soát trên phạm vi toàn quốc, không đáp ứng được nhu cầu lưu trữ thông tin NNT và công tác quản lý các đối tượng nộp thuế TNCN. Điều này làm ảnh hưởng đến chất lượng công tác quản lý thuế trên địa bàn.

Nguyên nhân của những hạn chế

Thứ nhất, chính sách quản lý thuế TNCN có nhiều sự thay đổi theo hướng hiện đại hóa trong những năm gần đây nhưng cơ quan có thẩm quyền vẫn chưa kịp xây dựng đầy đủ các văn bản hướng dẫn đồng bộ. Những nội dung đã được đưa vào triển khai thì thời gian tập huấn triển khai rất gấp gáp trong khi nội dung rộng, bao quát nhiều vấn đề khiến cho chính sách pháp luật mới chỉ được phổ biến ở bề nổi mà chưa đi sâu được vào bản chất.

Thứ hai, nhận thức và ý thức của người dân về nghĩa vụ nộp thuế TNCN chưa cao, trình độ hiểu biết về thuế, quyền lợi, nghĩa vụ của một bộ phận NNT chưa thực sự toàn diện. Bản thân một số cá nhân có hiểu biết vẫn cố tình làm sai và không thực hiện nghĩa vụ nộp thuế. Ngay cả các cơ quan chi trả thu nhập cũng gian lận với khoản thuế TNCN nộp thay người lao động để được giảm tiền thuế TNDN.

Thứ ba, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của một số cán bộ thuế còn hạn chế, chưa cập nhật đầy đủ kiến thức, kinh nghiệm mới để theo kịp sự phát triển của nền kinh tế, dẫn tới sai phạm trong quá trình quản lý thu thuế, tính thuế, quyết toán thuế...

Thủ đoạn trốn thuế hiện nay ngày càng tinh vi, phức tạp nếu không tự trau dồi kiến thức và kĩ năng thường xuyên thì các cán bộ thuế khó có thể phát hiện ra sai phạm của đối tượng bị thanh tra, kiểm tra khiến nguồn thu ngân sách thất thoát lớn. Bên cạnh đó, phẩm chất đạo đức của một số người khi thực hiện công việc còn kém, công tác thi hành hời hợt, đôi khi vẫn có biểu hiện lạm quyền, hạch sách với nhân dân.

Thứ tư, công tác kiểm tra, kiểm soát khấu trừ thuế tại nguồn còn chưa nghiêm, nhất là đối với những người hành nghề tự do, có thu nhập từ nhiều nơi, kinh doanh đa vùng miền, bán hàng qua mạng internet… dẫn đến việc khai nộp thuế của nhóm đối tượng này thiếu trung thực, thiếu nghiêm túc và không đầy đủ làm thất thu một khoản thuế không nhỏ vào NSNN.

Thứ năm, ảnh hưởng của dịch bệnh kéo dài đã làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh và kết quả thu NSNN do số hộ xin tạm nghỉ kinh doanh tăng cao, thời gian tạm ngừng kinh doanh kéo dài, đặc biệt là từ ngày 01/04/2020.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2


Chương 2 của Luận văn tập trung chỉ ra sự tiến bộ của các quy định pháp luật mới, phân tích, so sánh các quy định pháp luật đã hết hiệu lực và mới có hiệu lực về quản lý thuế TNCN từ nền tảng lý luận được nghiên cứu ở Chương 1. Trên cơ sở đó đưa ra nhận định, bình luận về thực trạng của mỗi nhóm quy định lần lượt theo từng khâu quản lý bao gồm: quản lý đối tượng nộp thuế TNCN; quản lý đăng ký và cấp MST; quản lý kê khai, nộp thuế, ấn định thuế TNCN; quản lý quyết toán thuế, hoàn thuế TNCN; quản lý miễn thuế, giảm thuế, giảm trừ gia cảnh; kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật về thuế TNCN; cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế TNCN và quản lý việc ứng dụng CNTT trong quản lý thuế TNCN. Bên cạnh đó, sau khi giới thiệu sơ qua về địa bàn nghiên cứu là Thành phố Bắc Kạn và cơ cấu tổ chức của Chi cục Thuế Thành phố Bắc Kạn; luận văn tiếp tục dựa trên những số liệu, báo cáo tổng kết quá trình thực hiện thu thập được tiến hành nhận xét, đánh giá thực tiễn thực hiện công tác quản lý thuế TNCN trên địa bàn Thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn đã đạt được những thành tựu gì, vẫn tồn tại những vướng mắc như thế nào và phân tích nguyên nhân những tồn tại đó.

Việc đi sâu làm rõ thực trạng pháp luật về quản lý thuế TNCN ở Việt Nam và thực tiễn thực hiện công tác quản lý thuế TNCN trên địa bàn Thành phố Bắc Kạn là cơ sở quan trọng để xác định và đưa ra những giải pháp phù hợp giúp hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả thực hiện công tác quản lý thuế TNCN ở Chương 3.

CHƯƠNG 3

GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT QUẢN LÝ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM‌


3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật quản lý thuế TNCN

Chính sách quản lý thuế thời gian qua đã có những thay đổi tích cực để thích nghi với tình hình thực tiễn góp phần đẩy mạnh cải cách hành chính thuế, điển hình là sự ra đời của Luật quản lý thuế số 38/2019/QH14. Mặc dù vậy nhiều quy định trong luật thuế TNCN của Việt Nam thực sự đã trở nên lạc hậu, xuất hiện nhiều lỗ hổng dẫn tới thất thu ngân sách. Vì thế, muốn pháp luật về quản lý thuế TNCN đạt hiệu quả khi đưa vào thực thi trên thực tế thì cần thiết phải có sự thay đổi thông qua một số giải pháp sau:

3.1.1. Phát triển, bổ sung các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Quản lý thuế năm 2019 theo hướng rõ ràng, cụ thể, đáp ứng được nhu cầu thực tiễn

Có thể thấy, nhiều quy định trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quản lý thuế TNCN hiện hành chưa đi sâu quy định chi tiết những nội dung cần thiết mà mới chỉ đề cập đến bề mặt của vấn đề, có những nội dung chỉ được nhắc đến một cách chung chung trong đạo luật mà chưa có hệ thống văn bản hướng dẫn chi tiết. Ví dụ như, hiện nay, quy định về khái niệm thông tin NNT trong phần giải thích từ ngữ của Luật Quản lý thuế năm 2019 chỉ mang tính chất liệt kê, giới hạn phạm vi nguồn thông tin chứ chưa đủ cụ thể dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau với mỗi đối tượng trong khi đó Luật Quản lý thuế mới có hiệu lực thi hành nên cơ quan có thẩm quyền chưa kịp ban hành các văn bản hướng dẫn dưới luật làm rõ các tiêu chí xác định đâu là “thông tin liên quan đến nghĩa vụ thuế của NNT”. Vì thế, việc yêu cầu cung cấp thông tin đôi khi không đủ căn cứ pháp lý với một số loại thông tin không biểu hiện rõ sự liên quan đối với nghĩa vụ nộp thuế của NNT.

Như vậy, giải pháp cần thiết để chính sách pháp luật quản lý thuế thực sự đạt hiệu quả là cơ quan có thẩm quyền phải nhanh chóng nghiên cứu ban hành hệ thống

Nghị định, Thông tư, Quyết định hướng dẫn quy trình các bước quản lý thuế phù hợp với sự thay đổi của Luật Quản lý thuế năm 2019 nhằm tăng cường hiệu quả thực thi công tác quản lý thuế trên thực tế. Việc nghiên cứu phát triển các quy định hướng dẫn thi hành trên cơ sở quy định sẵn có phải đảm bảo rõ ràng, cụ thể, phù hợp, khả thi với nhu cầu quản lý thực tiễn nhưng vẫn phải đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất giữa các quy định với nhau. Muốn đạt được mục tiêu đó thì khi xây dựng pháp luật cần tăng cường việc thu thập ý kiến đóng góp của tất cả các chủ thể có liên quan, phân tích những vướng mắc đang tồn tại (nguyên nhân phát sinh do đâu, vướng mắc này có tác động đến đối tượng nào, mức độ thiệt hại đối với NSNN ra sao…). Bên cạnh đó nên tham khảo pháp luật các nước quy định về vấn đề đó để rút ra bài học kinh nghiệm, chắt lọc, lựa chọn điểm phù hợp áp dụng cho pháp luật nước mình. Một hệ thống pháp luật quản lý thuế TNCN có pháp luật nội dung đầy đủ, chặt chẽ; cùng với đó pháp luật về thủ tục phù hợp, sử dụng hiệu quả trong thực tiễn sẽ khiến việc thực hiện hoạt động quản lý thuế TNCN trở nên dễ dàng, thuận lợi hơn rất nhiều mà hiện tượng gian lận nghĩa vụ nộp thuế của NNT cũng được giảm thiểu.

3.1.2. Xây dựng các quy định mới trong Luật thuế TNCN có sự thống nhất, đồng bộ với các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan

Sau một thời gian dài thực hiện, nhiều quy định trong Luật thuế TNCN đã xuất hiện những lỗ hổng dẫn đến phát sinh một số vướng mắc trên thực tế; đồng thời phạm vi điều chỉnh của Luật không còn bao quát được toàn diện như trước, một số quy định không phù hợp với thông lệ quốc tế.

Ví dụ, quy định về vấn đề xác định người phụ thuộc đối với cá nhân không có thu nhập, thu nhập không vượt quá mức quy định là con thành niên đang học từ bậc đại học trở xuống cũng chưa thực sự rõ ràng. Thực tế hồ sơ chứng minh người phụ thuộc cho nhóm đối tượng này chỉ phải nộp một lần, bao gồm giấy báo nhập học hoặc thẻ sinh viên bên cạnh những loại giấy tờ cơ bản khác. Pháp luật không quy định giới hạn về độ tuổi với những đối tượng này và cán bộ quản lý thuế TNCN cũng không có quyền xác minh hàng năm rằng người phụ thuộc liệu có

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 29/03/2024