Mối Quan Hệ Giữa Quản Lý Thuế Và Tuân Thủ Thuế

Trong số các phương pháp này, không có phương pháp nào có thể xem là đo lường hoàn toàn chính xác mức độ tuân thủ thuế hoặc tất cả các khía cạnh của đối tượng nộp thuế. Kết quả đo lường của phương pháp này có thể khác

với kết quả đo lường của phương pháp khác do các phương pháp dựa trên

những khái niệm và khía cạnh khai thác khác nhau. Các phương pháp khác nhau chứng minh các ưu điểm để đo lường các loại hành vi khác nhau hoặc thu thập thông tin từ các cách tiếp cận, các đối tượng khác nhau liên quan đến tuân thủ thuế được định nghĩa trong phương pháp đó.

9. Các nhân tố ảnh hưởng đến tuân thủ thuế

Về đề

tài tuân thủ

thuế, có rất nhiều nghiên cứu về

các nhân tố ảnh

hưởng đến tuân thủ thuế của đối tượng nộp thuế ở nước ngoài và Việt Nam. Các nhân tố tác động đến tuân thủ thuế được phân loại theo nhiều cách tiếp cận khác nhau, theo mục tiêu nghiên cứu của các nhà nghiên cứu.

Xét về

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 202 trang tài liệu này.

khía cạnh quản lý thuế

và hành vi tuân thủ

Quản lý thuế nhằm thúc đẩy tuân thủ thuế của doanh nghiệp trên địa bàn Thành Phố Hồ Chí Minh 1669779753 - 7

thuế

của doanh

nghiệp, các nhân tố chính tác động đến hành vi tuân thủ thuế có thể bao gồm:

Thứ nhất, các nhân tố kinh tế: đây là nhóm nhân tố vĩ mô nên ảnh hưởng đến mức độ và hành vi tuân thủ thuế của tất cả các đối tượng nộp thuế. Các nhân tố này bao gồm tốc độ tăng trưởng kinh tế, lạm phát, lãi suất thị trường, chính sách của chính phủ và hiệu quả chi tiêu công, mức độ hội nhập quốc tế của nền kinh tế, … Tùy vào hoàn cảnh cụ thể, mỗi nhân tố sẽ có tác động khác nhau đến mức độ tuân thủ thuế của doanh nghiệp nộp thuế.

Thứ hai, các nhân tố chính sách pháp luật về thuế: các nhân tố này có tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong quá trình thực hiện nghĩa vụ thuế. Hệ thống chính sách pháp luật thuế rõ ràng, minh bạch, hợp lý sẽ tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động kinh doanh phát triển, giảm chi phí tuân thủ thuế và góp phần giúp nâng cao mức

độ tuân thủ

của doanh nghiệp đối với nghĩa vụ

thuế. Ngược lại, nếu hệ

thống chính sách pháp luật thuế phức tạp, không chặt chẽ, không thống nhất sẽ tăng cơ hội cho doanh nghiệp lợi dụng khe hở của pháp luật thuế để tránh

và trốn thuế, đồng thời góp phần làm gia tăng mức độ doanh nghiệp.

không tuân thủ

của

Thứ ba, các nhân tố thuộc quản lý thuế: là nhóm nhân tố phản ánh khả năng, trình độ tổ chức quản lý của cơ quan thuế, bao gồm các nội dung:

Về các nội dung quy trình nghiệp vụ quản lý thuế: Tuyền truyền hỗ trợ; Quản lý thủ tục và tính thuế; Quản lý nợ và cưỡng chế nợ thuế; Quản lý thông tin đối tượng nộp thuế; Thanh tra kiểm tra thuế; Xử lý vi phạm pháp luật về thuế; và Giải quyết khiếu nại tố cáo [34]. Trên cơ sở những nội dung quản lý thuế, cơ quan thuế thực thi càng hiệu quả và đúng theo luật định thì đối tượng nộp thế sẽ có xu hướng tuân thủ theo luật định. Đây cũng là mục tiêu và nhiệm vụ của quản lý thuế.

Về chất lượng dịch vụ thuế: thể hiện trong cách thức quản lý, nghiệp vụ chuyên môn và các giao dịch với đối tượng nộp thuế. Chất lượng dịch vụ công về thuế có quan hệ cùng chiều với mức độ tuân thủ pháp luật thuế của đối tượng nộp thuế.

Về sử dụng công nghệ trong quản lý thuế: vận dụng các phần mềm, công nghệ hiện đại trong quản lý và các thao tác chuyên môn, nghiệp vụ về thuế. Việc vận dụng công nghệ trong quản lý thuế càng tốt và hiệu quả, sẽ giúp giảm chi phí và tăng hiệu quả trong công tác quản lý, cũng như kê khai, nộp thuế. Do đó, ứng dụng công nghệ trong quản lý thuế sẽ có xu hướng tác động cùng chiều mới mức độ tuân thủ thuế của doanh nghiệp.

Thứ tư, các nhân tố thuộc về doanh nghiệp: bao gồm các nhân tố thuộc về bản thân và hoạt động của doanh nghiệp.

Về đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp: cơ cấu tổ chức, loại hình sở hữu, quy mô hoạt động, thâm niên hoạt động, hiệu quả kinh doanh, quản trị

doanh nghiệp, … trong một số

nghiên cứu về

cùng đề

tài, đặc điểm hoạt

động của doanh nghiệp có tác động cùng chiều đến mức độ tuân thủ thuế của doanh nghiệp.

Về kiến thức về thuế của doanh nghiệp: mức độ kiến thức hiểu biết và

vận dụng pháp luật thuế trong hoạt động sản xuất kinh doanh và kê khai nộp thuế có ảnh hưởng nhất định đến quyết định tuân thủ hoặc không tuân thủ của doanh nghiệp.

Về nhận thức về sự công bằng của hệ thống thuế: bao gồm nhận thức về sự công bằng trong phân phối (trao đổi nguồn lực, lợi ích và chi phí); công bằng trong thủ tục (lòng tin vào cơ quan thuế, cách đối xử khi thực hiện các thủ tục thuế); và công bằng trong trừng phạt (sự phù hợp của các mức phạt khi vi phạm). Doanh nghiệp càng nhận thức được sự công bằng của hệ thống thuế sẽ càng có xu hướng tuân thủ theo pháp luật của hệ thống thuế.

Về chi phí tuân thủ thuế: một số kết quả nghiên cứu cho thấy chi phí tuân thủ thuế càng cao, doanh nghiệp càng có xu hướng không tuân thủ để làm giảm gánh nặng cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

Thứ năm, các nhân tố khác: tuổi, nghề nghiệp, học vấn của người quản lý doanh nghiệp, chuẩn mực xã hội, … các nhân tố này cũng có ảnh hưởng nhất định đến mức độ tuân thủ thuế của doanh nghiệp.

3. Mối quan hệ giữa quản lý thuế và tuân thủ thuế

Về mặt khái niệm quản lý thuế quản lý thuế theo nghĩa hẹp, tức là quản lý hành chính về thuế của cơ quan thuế đối với các đối tượng nộp thuế được

xác định trong pháp luật về

thuế. Mặt khác, đối tượng nộp thuế

phải thực

hiện nghĩa vụ thuế bắt buộc theo pháp luật về thuế. Sự thực hiện nghĩa vụ thuế của đối tượng nộp thuế được thể hiện thông qua việc tuân thủ theo pháp luật về thuế.

Cùng trên cơ sở pháp luật về

thuế, quản lý thuế

thực thi các công tác

quản lý hành chính và đối tượng nộp thuế tuân thủ theo các nghĩa vụ được quy định trong pháp luật thuế. Như vậy, hành vi tuân thủ thuế của đối tượng nộp thuế có chịu sự quản lý và ảnh hưởng của quản lý thuế (sự quản lý của cơ quan thuế).

Xét về khía cạnh vai trò và nhiệm vụ của quản lý thuế, quản lý thuế

không chỉ đảm bảo sự vận hành thông suốt hệ thống cơ quan nhà nước, mà

còn có tác động tích cực tới quá trình thu, nộp thuế và NSNN. Trong đó, để sự vận hành trên được thuận lợi và đạt kết quả tốt, sự tuân thủ của của NNT đóng một vai trò rất quan trọng.

Erard và cộng sự (1994) đã phát biểu rằng sự tồn tại của tất cả hệ thống quản lý thuế là để đảm bảo NNT tuân thủ luật thuế [68]. Bird (2008) bổ sung quan điểm rằng quản lý thuế đóng vai trò rất quan trọng và một nhiệm vụ trọng yếu của quản lý thuế đó là đảm bảo mức tuân thủ tối đa của đối tượng nộp thuế đối với nghĩa vụ của tất cả các loại thuế [52]. Đồng thời, thực hiện

quản lý thuế tốt là điều kiện tiên quyết để đảm bảo tuân thủ thực thi chính sách thuế một cách hiệu quả và hiệu suất [68].

của NNT và

Như vậy, sự tuân thủ của NNT vừa có thể là mục tiêu, vừa có thể là kết quả của quản lý thuế hiệu quả. Đảm bảo và không ngừng nâng cao mức tuân thủ của NNT luôn là mục tiêu và kết quả mong muốn của các cơ quan quản lý thuế.

Mối quan hệ giữa quản lý thuế và tuân thủ thuế cũng được nhiều tác giả nghiên cứu thực nghiệm. Nhiều công trình nghiên cứu trình bày trong phần tổng quan cho thấy quản lý thuế, một nội dung hay nhiều nội dung, trong phạm vi nhiều hoặc ít, có tác động và ảnh hưởng đến sự tuân thủ của NNT. Quản lý thuế được đưa vào nhiều mô hình nghiên cứu về tuân thủ thuế với vai trò là một nhân tố tác động đến tuân thủ thuế (Schaffer và Turley (2000); Mitra và Stern (2003); Kanybek (2008)).

Do điều kiện thực hiện nghiên cứu khác nhau, kết quả nghiên cứu về mối quan hệ giữa quản lý thuế và tuân thủ thuế không giống nhau. Tuy nhiên, nhìn chung các kết quả nghiên cứu đề cho thấy quản lý thuế có tác động và ảnh hưởng đến sự tuân thủ của NNT.

2. CÁC MÔ HÌNH LÝ THUYẾT VỀ QUẢN LÝ THUẾ VÀ TUÂN THỦ THUẾ

Đề tài về quản lý thuế và tuân thủ thuế được nhiều nhà nghiên cứu khai thác từ nhiều góc độ khác nhau, xây dựng nên nhiều mô hình lý thuyết khác

nhau hoặc có điểm tương đồng với nhau. Tuy nhiên, chưa có mô hình lý thuyết nào thực sự hoàn chỉnh cho việc nghiên cứu về các nhân tố tác động

đến tuân thủ thuế. Mỗi mô hình nghiên cứu được thực hiện dựa trên điều

kiện cụ thể tại thời điểm nghiên cứu, do đó khó có thế thích hợp với tất cả các hoàn cảnh kinh tế ­ xã hội khác nhau. Tuy nhiên, những cơ sở lý thuyết này đặt nền móng tham khảo và phát huy cho các nghiên cứu cùng đề tài.

Trong nghiên cứu của luận án, tác giả kế thừa các mô hình lý thuyết về góc độ nghiên cứu (khảo sát những đối tượng nộp thuế đánh để kiểm định mô hình) và một số nhân tố liên quan đến quản lý thuế trong mô hình các nhân tố

tác động đến tuân thủ

thuế. Tác giả

không vận dụng chính xác nhân tố kế

thừa mà điều chỉnh, xây dựng dựa trên đặc điểm và điều kiện cụ quản lý thuế và tuân thủ thuế ở Việt Nam.

1. Mô hình tâm lý hành vi phổ biến

thể

của

Mô hình tâm lý hành vi phổ biến là mô hình cổ điển được áp dụng trước khi được khái quát hoá thành lý thuyết mô hình tâm lý học hành vi phổ biến. Valiarie và John Braithwaite (1985) cho rằng tâm lý hành vi phổ biến của con người là lựa chọn hành động khi đã hiểu biết lợi ích và hậu quả liên quan đến hành động đó. Khi áp dụng vào quản lý thuế, để đạt được sự tuân thủ cao từ NNT, cơ quan thuế cần tuần tự quản lý từ việc thuyết phục NNT đến trừng phạt với các hình thức từ nhẹ đến nặng (nhắc nhở bằng văn bản, phạt hành chính, phạt hình sự, cấm hoạt động tạm thời, cấm hoạt động vĩnh viễn). Đặc điểm quan trọng của mô hình này là các biện pháp được thực hiện theo tuần

tự từ

thấp đến cao. Biện pháp cao hơn chỉ

được thực hiện khi biện pháp

trước đó đã được áp dụng thất bại. Do đó, mô hình này còn gọi là mô hình Thuyết phục và trừng phạt (Valiarie và John Braithwaite (1985)).

Mô hình quản lý thuế theo tâm lý hành vi phổ biến này thể hiện phương

thức quản lý thuế truyền thống. Trong quản lý thuế, phương thức quản lý

truyền thống được sử dụng là phương pháp giáo dục, phương pháp hành chính và phương pháp kinh tế.

Phương pháp giáo dục thể hiện qua cách thuyết phục NNT, tác động vào nhận thức của họ nhằm nâng cao tính tự giác và tích cực tuân thủ nghĩa vụ thuế. Tuyên truyền hỗ trợ NNT chính là một cách thức thuyết phục NNT, hỗ trợ NNT hiểu biết về pháp luật thuế và nghĩa vụ của họ.

Phương pháp hành chính là cách thức tác động trực tiếp đến NNT bằng các quyết định hành chính mang tính bắt buộc. Trong mô hình quản lý thuế này, phương pháp hành chính thể hiện trong các biện pháp trừng phạt (nhắc nhở bằng văn bản, phạt hành chính, phạt hình sự, cấm hoạt động tạm thời, cấm hoạt động vĩnh viễn). Các nội dung quản lý thuế tương ứng là xử lý vi phạm pháp luật thuế của NNT.

Hiện nay, trong thực tiễn quản lý thuế, mô hình quản lý thuế truyền

thống này này vẫn được sử dụng kết hợp với mô hình tuân thủ ở nhiều nước.

2. Mô hình tuân thủ ATO

Đây là mô hình quản lý thuế được xác lập trên cơ sở đánh giá mức độ tuân thủ của NNT. Quản lý thuế theo mức độ tuân thủ của NNT (còn gọi là quản lý tuân thủ) là một trong các phương pháp quản lý thuế hiện đại, thường được áp dụng trong cơ chế tự khai, tự nộp thuế.

Trong mô hình này, dựa trên mức độ tuân thủ của NNT, NNT được phân loại thành từng nhóm tương ứng và được áp dụng các phương pháp quản lý khác nhau của cơ quan thuế. Mô hình này do Grabosky và Braithwaite đề xuất năm 1986, sau đó được cơ quan thuế Úc vận dụng từ cuối những năm 1990 [54]. Do đó, mô hình này còn được gọi là mô hình tháp tuân thủ ATO.

Mô hình tuân thủ thuế bao gồm hai phần. Phần bên trái mô hình phản ánh các nhân tố tác động đến hành vi tuân thủ của đối tượng nộp thuế, bao gồm

năm nhóm nhân tố chính: đặc điểm kinh doanh (Business), đặc điểm ngành

(Industry), đặc điểm xã hội (Socialogical), đặc điểm kinh tế (Economic) và

đặc điểm tâm lý (Psychological) – gọi tắt là BISEP. Phần kim tự tháp bên phải thể hiện thái độ và hành vi của đối tượng nộp thuế (từ mức độ sẵn sàng tuân thủ đến mức độ quyết định không tuân thủ), và các và biện pháp ứng đối của

cơ quan thuế (từ tạo điều kiện thuận lợi cho tuân thủ đến áp dụng toàn bộ các biện pháp theo pháp lý).


Hình 2.. Mô hình tuân thủ thuế ATO


(Nguồn: Braithwaite và cộng sự, 1994)

Nếu

đối tượng nộp thuế sẵn sàng tuân thủ, cơ

quan thuế

sẽ tạo điều

kiện thuận lợi để họ tuân thủ. Nếu đối tượng nộp thuế có cố gắng, nhưng không phải luôn thành công trong việc tuân thủ thuế, cơ quan thuế sẽ hỗ trợ

để họ tuân thủ. Nếu đối tượng nộp thuế không muốn tuân thủ, nhưng sẽ tuân

thủ nếu như bị chú ý giám sát, cơ quan thuế ngăn chặn hành vi không tuân thủ của họ thông qua cơ chế phát hiện vi phạm. Nếu đối tượng nộp thuế quyết

định không tuân thủ, cơ quan thuế sẽ

áp dụng tất cả các biện pháp chế

tài

theo pháp luật để ngăn chặn và xử lý các hành vi không tuân thủ của họ.

Mô hình tuân thủ ATO chứng minh sự tồn tại của một sự kết hợp giữa nghiên cứu khoa học và thực tiễn. Thành tựu Braithwaite đạt mức tới hạn nhằm lý thuyết hóa từ bằng chứng thực tế thành lý luận tuân thủ thuế. Cấu trúc của mô hình ATO đến như là một hệ quả của một loạt các cải cách đó đã

cố gắng để

đem văn hóa nộp thuế

không tự

nguyện hơn trong số các công

dân.

Trong nghiên cứu của luận án, tác giả kế thừa hai nhân tố là đặc điểm

kinh doanh và đặc điểm tâm lý của đối tượng nộp thuế. Trong mô hình nghiên cứu đề xuất, tác giả xây dựng hai nhân tố đặc điểm của doanh nghiệp, đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp và Đặc điểm tâm lý của chủ/người quản lý doanh nghiệp, trong mô hình tuân thủ thuế của doanh nghiệp.

3. Mô hình tuân thủ của Allingham và Sandmo

Allingham và Sandro (1972) xây dựng Mô hình kinh tế lượng về tuân thủ thuế dựa trên cơ sở lý thuyết kinh tế học về tội phạm của Becker (1968) [44], [50]. Mô hình này đóng góp nền tảng về cơ sở lý thuyết các mô hình tuân thủ

thuế ban đầu và được nhiều nhà nghiên cứu phát triển theo nhiều hướng khác nhau.

Theo khung lý thuyết của mô hình Allingham và Sandro (1972), thu nhập kê khai thuế phụ thuộc vào I, p, f và t như sau:

D = f (I, p, f, t)

Trong đó: D: mức thu nhập mà đối tượng nộp thuế kê khai với cơ quan

thuế; I: thu nhập của đối tượng nộp thuế; p: khả năng bị phát hiện nếu kê

khai thiếu thu nhập chịu thuế; f: mức phạt khi khai thiếu thu nhập chịu thuế; và t: thuế suất

Đối tượng nộp thuế có hai lựa chọn chiến lược: (1) Kê khai mức thu

nhập thực để chịu thuế; hoặc (2) Kê khai mức thu nhập tính thuế thấp hơn mức thu nhập thực.

Kết quả của mô hình cho thấy thu nhập kê khai thuế D chịu tác động

trực tiếp của thu nhập I, khả năng bị phát hiện (khả năng bị kiểm tra thuế) và mức phạt, nhưng chịu tác động ngược chiều của thuế suất. Trong giai đoạn sau, mô hình này được phát triển và thêm vào nhân tố G (chi tiêu của chính phủ).

Các tiếp cận của mô hình, trên cơ sở kinh tế học về tội phạm, dựa trên giả định rằng một cá nhân đóng thuế chỉ vì kết quả về mặt kinh tế của việc mạo hiểm trốn thuế và vì họ sợ bị phát hiện và bị phạt. Tuy nhiên, các vấn đề về lợi ích kinh tế và chế tài bắt buộc này không thể giải thích hoàn toàn cho hành vi tuân thủ hoặc không tuân thủ. Thực tế, nhiều nghiên cứu cho thấy, ở hầu hết các nước, tỷ lệ các tờ khai thuế thu nhập bị thanh tra, kiểm tra rất

nhỏ, chỉ

khoảng nhỏ

hơn 1% (Alm, 2012). Do đó, mặc dù mô hình của

Allingham và Sandro (1972) đơn giản và hiệu quả trong một số trường hợp ứng dụng, mô hình tuân thủ thuế còn cần phải xét đến nhiều nhân tố phi kinh tế tiềm tàng khác.

Mô hình của Allingham và Sandro (1972) có thể được xem là mô hình cơ bản nhất liên quan đến tuân thủ thuế [44]. Các nhân tố của mô hình này được

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 30/11/2022