Chính Sách Đối Với Huy Động Và Tín Dụng Ngoại Tệ


góc độ. Chính vì vậy, để quản trị rủi ro KDNH một cách hiệu quả, cần thực hiện đồng bộ, thống nhất phối hợp ở tất cả các cấp độ, mà cấp độ cao nhất và trực tiếp trong hệ thống ngân hàng Việt nam chính là NHNN. Tác giả kiến nghị các chính sách sau với NHNN:

3.4.2.1. Chính sách tỷ giá USD/VND

Chính sách tỷ giá luôn là một chính sách vĩ mô rất quan trọng bởi phạm vi tác động lớn, khó lường trước và thường phải đánh đổi giữa nhiều mục tiêu vĩ mô. Trên thực tế thường có quá nhiều mục tiêu được đặt ra cho chính sách tỷ giá, trong khi đó các công cụ thực thi chính sách và dư địa thực hiện chính sách lại khá hạn hẹp. Việc giảm giá đồng nội tệ có thể thúc đẩy xuất khẩu và cải thiện cán cân thanh toán, nhưng điều đó chỉ có thể xảy ra trong những điều kiện nhất định. Lựa chọn một chế độ tỷ giá hối đoái phù hợp để ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng dài hạn cũng như ổn định cho hoạt động trên thị trường ngoại hối được coi là một ưu tiên trong quản lý kinh tế hiện nay. Việc đánh giá diễn biến và nguyên nhân biến động của tỷ giá, đồng thời phân tích mối liên hệ giữa chính sách tỷ giá và các biến số kinh tế vĩ mô là một chủ đề mà các nhà hoạch định chính sách hiện rất quan tâm, theo Ủy ban kinh tế quốc hội (2011).

Chính sách neo tỷ giá có mục tiêu là giúp ổn định kinh tế vĩ mô nhưng cũng làm tăng sức ép cho nhà quản lý, dẫn đến có giai đoạn điều hành bị giật cục, làm tăng lạm phát như xảy ra gần đây. Tuy nhiên, trong giai đoạn vài năm trở lại đây khi điều kiện thâm hụt thương mại lớn, cán cân tài khoản vãng lai thường xuyên thâm hụt, lạm phát gần đây thuộc loại cao nhất khu vực, thì nền kinh tế tiếp tục bị đôla hóa với tỷ lệ đáng kể. Lạm phát cao cũng làm tăng nhu cầu tích trữ của cải, hệ quả là giá vàng trong nước thường xuyên cao hơn giá vàng quốc tế dẫn đến nhập lậu vàng đáng kể. Trong bối cảnh như vậy, chính sách tỷ giá chịu nhiều sức ép và khó có thể làm hài lòng tất cả mọi người.

Mối quan ngại hiện nay là các nước đều kiềm chế tốc độ tăng giá bản tệ và dùng công cụ tỷ giá để thúc đẩy xuất khẩu mà không tuân theo quy luật cung cầu. Trong khi đó, mức độ phát triển không đồng đều của thế giới đã làm gia tăng nỗi lo


về những phản ứng bất lợi khi các nước tìm cách bảo vệ sự cạnh tranh thương mại của họ trước những kỳ vọng về sự mất giá tiếp theo của USD.

Giá bản tệ tăng có thể giúp đối phó với lạm phát nhờ dòng vốn vào tăng và nhập khẩu rẻ hơn, góp phần thúc đẩy tiêu dùng trong nước, từng bước nâng cao chất lượng cuộc sống và tăng năng suất lao động, đồng thời giúp các nhà hoạch định chính sách đạt được mục tiêu biến nhu cầu nội địa thành động lực tăng trưởng kinh tế lớn hơn, năng lực đầu tư được tăng cường và đóng góp nhiều hơn cho GDP. Giá bản tệ tăng có thể làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn, nhưng đảm bảo tăng trưởng bền vững trong dài hạn và giúp khắc phục triệt để các vấn đề xã hội.

Phá giá đồng nội tệ có thể hỗ trợ xuất khẩu, nhưng mức độ đóng góp của xuất khẩu vào tăng trưởng kinh tế còn phụ thuộc vào tỷ trọng hàng nhập khẩu trong hàng hóa xuất khẩu, một đồng bản tệ quá yếu sẽ gây nên lạm phát và bong bóng tài sản, làm suy giảm năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước. Vấn đề quan trọng là phải tăng lợi nhuận xuất khẩu và tạo việc làm một cách liên tục, nhưng không nên lệ thuộc vào điều chỉnh tỷ giá, những yếu tố khác của tăng trưởng kinh tế có thể bù cho bất cứ sự sụt giảm nào của xuất khẩu. Việc các nước đồng loạt phá giá đã làm cho việc phá giá trở nên vô nghĩa, thậm chí không còn khả năng kiểm soát lạm phát do cung tiền quá mức, nhưng dường như các chính phủ và NHTW còn bị chi phối bởi lợi ích quốc gia mặc dù biết rằng, một chính sách tỷ giá phù hợp sẽ đảm bảo và cải thiện thu nhập thực tế của người lao động, làm nền tảng để nâng cao hiệu quả tăng trưởng.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 250 trang tài liệu này.

Trong khi đó, một chính sách tỷ giá thả nổi - công cụ của nền kinh tế thị trường phát triển - là một nhân tố gây mất ổn định mạnh trong bối cảnh nền kinh tế chuyển đổi chưa phát triển đầy đủ các quan hệ thị trường. Việc nhấn mạnh một chiều các lợi ích của việc ấn định giá trị đồng bản tệ quá cao hoặc quá thấp, cũng giống việc thả nổi hoàn toàn tỷ giá, là chỉ tính đến những lợi ích ngắn hạn và chứa đựng trong đó tất cả những hiểm họa mà sớm hay muộn sẽ bùng nổ trong tương lai, khiến toàn bộ nền kinh tế phải trả giá đắt hơn so với những lợi ích cục bộ thu được.


Quản lý rủi ro trong kinh doanh ngoại hối của các Ngân hàng thương mại cổ phần tại TP.HCM - Trường ĐH Ngân hàng - 23

Cái giá phải trả càng cao nếu mức độ chênh lệch giữa tỷ giá trên thị trường chính thức và tỷ giá trên thị trường phi chính thức càng lớn và được duy trì càng lâu, cũng như nếu cơ chế và các thể chế thị trường trong nước càng sơ khai và thiếu đồng bộ. Hơn nữa, sự đầu cơ quốc tế sẽ làm cho cái giá phải trả này càng trở nên khổng lồ và khó lường trước được.

Do đó, không có một cơ chế tỷ giá hối đoái nào là tối ưu trong mọi trường hợp. Nhưng thực tế cho thấy, giữ được tỷ giá ổn định dựa trên việc tìm kiếm thường xuyên sự cân đối tối ưu giữa tính chất tự thân thị trường với sự can thiệp nhà nước là điều kiện tốt cho tăng trưởng kinh tế trong từng thời kỳ nhất định. Vì vậy, chính sách tỷ giá ngày càng được nhiều nước lựa chọn là sự điều chỉnh tỷ giá có tính mềm dẻo, linh hoạt một cách thận trọng thích ứng với những biến động dựa trên quan hệ cung cầu thị trường có sự điều tiết tích cực của nhà nước.

Có hai phương thức xác định xu hướng và mức vận động của tỷ giá danh nghĩa ổn định thường được dùng là:

Xác định một hoặc một số ngoại tệ mạnh mà tỷ giá bản tệ biến động gắn với chúng: Đó có thể là ngoại tệ thường dùng trong thanh toán quốc tế, hoặc đồng tiền của nước bạn hàng chính. Phương thức này đặt sự biến động của đồng bản tệ vào các nhân tố bên ngoài, và do đó dễ gây ra tình trạng “nhập khẩu” lạm phát hoặc thiểu phát, đột biến giá cả ngoài tầm quản lý của chính phủ, tăng tính bị động của chính sách vĩ mô, thường gây bất ổn cho thị trường ngoại hối.

Định kỳ điều chỉnh tỷ giá bản tệ: NHTW dự kiến trước mức điều chỉnh giá bản tệ trong khoảng thời gian xác định trên cơ sở cân nhắc và dự báo cung - cầu về ngoại tệ, tình hình kinh tế - xã hội cụ thể trong, ngoài nước và xu thế vận động của chúng. Tuy vậy, nếu khoảng cách của các chu kỳ điều chỉnh tỷ giá không được cân nhắc đầy đủ sẽ gây ra tình trạng hỗn loạn, bất an trong tâm lý và hoạt động kinh tế; sẽ làm gia tăng nạn đầu cơ hoặc thái độ chờ thời của các chủ đầu tư, đặc biệt là khi chính phủ tạo ra sự điều chỉnh tỷ giá một chiều – tức chỉ tăng hay giảm tỷ giá.


Hơn nữa, nếu ghìm tỷ giá quá lâu hoặc mức điều chỉnh tỷ giá bản tệ quá mức sẽ gây ra tình trạng tăng hoặc giảm quá giá trị bản tệ, từ đó kéo theo các hệ quả của việc định giá quá cao hoặc quá thấp đồng bản tệ như đã phân tích ở trên.

Do vậy, sự điều chỉnh tỷ giá bản tệ sẽ là nhân tố ổn định chỉ khi những biện pháp phối hợp của chính sách tiền tệ không làm tăng cung tiền vượt quá mức tăng sản lượng hàng hóa vật chất và tiền tệ hóa sự thiếu hụt ngân sách - một việc làm sẽ khiến gia tăng lạm phát, đôla hóa và dễ tạo ra vòng xoáy chóng mặt của lạm phát - phá giá bản tệ - lạm phát, để rồi đi tới sự sụp đổ bản tệ, gây bất ổn trầm trọng cho thị trường ngoại hối.

Bên cạnh đó, dù linh hoạt chính sách tỷ giá, Nhà nước vẫn giữ vai trò điều tiết nền kinh tế và cần thúc đẩy các kênh đầu tư để thu hút lượng USD nhằm giảm bớt tác dụng phụ của chính sách tỷ giá hối đoái, có biện pháp kiểm soát chặt hơn và hạn chế nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài, đặc biệt là của các quỹ đầu tư rủi ro. Trong điều kiện nền kinh tế chưa hấp thu hiệu quả đồng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài thì nên đặt ưu tiên số một là khôi phục ổn định vĩ mô của nền kinh tế, đảm bảo cho sự tăng trưởng dài hạn.

3.4.2.2. Phát triển thị trường sản phẩm phái sinh

Công cụ phái sinh là một công cụ bắt nguồn từ một sản phẩm gốc đã có từ trước như ngoại tệ, vàng, chứng chỉ tiền gửi bằng ngoại tệ, v.v… Các công cụ phái sinh ngoại hối thông dụng bao gồm: kỳ hạn, hoán đổi, hợp đồng tương lai và hợp đồng quyền chọn ngoại hối.

Công cụ phái sinh ngoại hối ra đời là để bảo hiểm rủi ro tỷ giá. Tỷ giá biến động theo một biên độ lớn và ngẫu nhiên, phản ánh quan hệ cung cầu về ngoại tệ trên thị trường là điều kiện tiên quyết cho việc sử dụng các công cụ phòng chống rủi ro. Trên thị trường ngoại hối, bên cạnh việc phản ánh quan hệ cung cầu về ngoại tệ thì thị trường còn ẩn chứa các yếu tố đầu cơ và chênh lệch giá về ngoại tệ. Đây cũng là những yếu tố quan trọng trong việc làm cho tỷ giá hối đoái trên thị trường ngoại hối biến động một cách khó dự đoán. Chính vì sự không dự đoán trước được những thay đổi của tỷ giá trên thị trường mà các doanh nghiệp cũng như các NHTM và các


chủ thể khác trong nền kinh tế có hoạt động giao dịch ngoại hối luôn có mong muốn bảo hiểm rủi ro để chống lại những tổn thất có thể xảy ra đối với các dòng tiền ngoại tệ của mình.

Theo thông lệ quốc tế, trước khi giao dịch các sản phẩm phái sinh như hoán đổi, quyền chọn hay tương lai, các bên tham gia phải ký kết với nhau bản thỏa thuận chung của Hiệp hội các nhà kinh doanh phái sinh và hoán đổi quốc tế ISDA. Thỏa thuận này bao gồm các điều khoản và điều kiện nhằm quy định phạm vi giao dịch, loại công cụ giao dịch, nghĩa vụ của các bên tham gia; quy định các vấn đề về giải quyết tranh chấp, tòa án hay các vấn đề xử lý khi có bên tham gia bị mất khả năng thanh toán, v.v…

Thị trường phái sinh và công cụ phái sinh ngoại hối rất đa dạng, phức tạp đòi hỏi các giao dịch viên phải có trình độ chuyên môn cao về lĩnh vực ngoại hối, am hiểu các kỹ thuật nghiệp vụ phái sinh ngoại hối. Đặc biệt là cán bộ giao dịch phải có khả năng vận dụng linh hoạt các công cụ phòng chống rủi ro tỷ giá đối với danh mục đầu tư bằng ngoại tệ, vàng của bản thân đơn vị. Bên cạnh điều kiện về trình độ cán bộ thì vấn đề công nghệ áp dụng tại các đơn vị cũng là điều kiện cần thiết để ứng dụng nghiệp vụ phái sinh ngoại hối. Vì các công cụ phái sinh nói chung và công cụ phái sinh ngoại hối nói riêng được xây dựng trên cơ sở sử dụng các thuật toán phức tạp để dự đoán về các khả năng biến động của tỷ giá hối đoái trong tương lai. Do đó đòi hỏi các NHTM, doanh nghiệp và các chủ thể có liên quan cần phải có các phần mềm hiện đại để xử lý giao dịch cũng như quản lý và tính phí đối với các công cụ phái sinh. Từ đó, các chủ thể có hoạt động giao dịch ngoại hối có điều kiện phòng ngừa và giảm rủi ro ngoại hối hiệu quả và kinh tế nhất theo điều kiện của đơn vị mình.

3.4.2.3. Chính sách đối với huy động và tín dụng ngoại tệ

Nhận thức được những tác động tiêu cực của tín dụng ngoại tệ, NHNN đã có chủ trương hạn chế, thu hẹp đối tượng cho vay và thắt chặt khả năng cho vay của các NHTM và hạ thấp lãi suất huy động ngoại tệ. Trong giai đoạn 2008 - 2011, NHNN đã liên tục đưa ra những thay đổi về đối tượng được vay và quy định đối với


TCTD cho vay bằng ngoại tệ, điển hình là các Quyết định 09/2008/QĐ-NHNN, Thông tư 25/2009/TT-NHNN, Quyết định số 750/QĐ-NHNN, Quyết định số 74/QĐ-NHNN, v.v... Những động thái này cho thấy chủ trương của NHNN tăng cường kiểm soát và hạn chế tín dụng ngoại tệ, nhằm tạo ra sự ổn định trên thị trường ngoại hối. Tuy nhiên để biến chủ trương thành hiện thực cần phải xây dựng một lộ trình với các giải pháp cụ thể.

Việc hạn chế và tiến tới xóa bỏ tín dụng ngoại tệ có thể được thực hiện theo một lộ trình được xác định gồm hai giai đoạn, trước mắt đến hết năm 2013 là xóa bỏ huy động tiền gửi ngoại tệ và hạn chế cho vay ngoại tệ, sau đó xóa bỏ hoàn toàn tín dụng ngoại tệ chuyển sang quan hệ mua bán từ hết năm 2015. Các giải pháp cụ thể bao gồm như sau:

Chấm dứt việc nhận tiền gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ song song với việc giải phóng lãi suất nội tệ và giải phóng tỷ giá, tạo điều kiện cho các chủ thể nắm giữ ngoại tệ bán cho các NHTM

Hạn chế tình trạng nắm giữ ngoại tệ của các doanh nghiệp thông qua việc tái áp dụng chế độ kết hối ngoại tệ và khuyến khích bán ngoại tệ cho các NHTM

Sàng lọc và lựa chọn khách hàng vay vốn bằng ngoại tệ kết hợp với việc xác định hạn mức cho từng đối tượng khách hàng

Hạn chế khách hàng vay vốn bằng ngoại tệ trung và dài hạn bằng cách khuyến khích vay bằng Đồng Việt Nam

Phát triển thị trường ngoại hối nhằm đáp ứng sử dụng ngoại tệ thông qua quan hệ mua - bán tiến tới xóa bỏ hoàn toàn tín dụng ngoại tệ từ sau năm 2015.

Cho nên, hạn chế và tiến tới chấm dứt tín dụng ngoại tệ là một định hướng tư duy hoàn toàn đúng đắn để giải quyết những bất cập, mất ổn định kinh tế vĩ mô ở Việt Nam hiện nay và bằng chứng là Chính phủ và NHNN đã có những định hướng rõ ràng về việc thu hẹp tín dụng ngoại tệ. Tuy nhiên, cũng cần nhận thức rằng hạn chế và xóa bỏ tín dụng ngoại tệ ở Việt Nam là một sự đánh đổi, chấp nhận những khó khăn thách thức trước mắt để củng cố lòng tin, sức mua và chủ quyền của đồng


tiền Việt Nam, một trong những điều kiện cơ bản để ổn định vững chắc kinh tế vĩ mô.

3.4.2.4. Lập sàn giao dịch vàng, ngoại tệ và các sản phẩm phái sinh mang tính quốc gia

Sở giao dịch vàng, ngoại tệ và các sản phẩm phái sinh mang tính Quốc gia của Việt Nam sẽ là nơi giao dịch vàng, ngoại tệ và các sản phẩm phái sinh tập trung và chính thức của cả nước. Việc hình thành một thị trường chung được kỳ vọng sẽ tạo lập sân chơi có tổ chức, minh bạch, chấm dứt tình trạng lộn xộn hiện nay trên thị trường. Cơ quan này sẽ thuộc sở hữu Nhà nước, được thành lập dưới dạng một công ty TNHH một thành viên nhà nước, với mặt hàng đặc biệt là vàng, ngoại tệ và các sản phẩm phái sinh. Những cá nhân, doanh nghiệp và các ngân hàng có vàng, ngoại tệ có nhu cầu mua bán sẽ đăng ký lưu ký trên tài khoản của Sở giao dịch và đặt các lệnh mua bán thông qua hệ thống giao dịch tại Sở. Sở giao dịch chỉ là nơi cung cấp địa điểm, dịch vụ cho hoạt động thanh toán và giao nhận vàng và ngoại tệ, không tham gia giao dịch trên sàn. Các thành viên tham gia thị trường gồm hai loại tự doanh và môi giới, đây là các Ngân hàng hoặc doanh nghiệp kinh doanh ngoại hối có uy tín và danh tiếng tốt, minh bạch trong kinh doanh. Sàn được xây dựng hệ thống và quy định về giao dịch, hệ thống thanh toán cũng như các vấn đề về lưu trữ, vận chuyển và đảm bảo chất lượng vàng. Các vấn đề về quản lý rủi ro đảm bảo minh bạch trên thị trường cũng sẽ được tuân thủ các quy định rõ ràng. Tại Sở giao dịch cũng có dịch vụ mua bán có kỳ hạn và thực hiện các công cụ phái sinh để phòng ngừa rủi ro khi thị trường ngoại hối thế giới biến động bất thường. Nhà đầu tư sẽ được tính giá mua, giá bán trên cơ sở khớp giá hàng ngày của nhiều người mua, nhiều người bán, nếu lượng khách giao dịch càng lớn sẽ phản ánh giá mua và giá bán càng khách quan hơn.

Đối với thị trường vàng hiện nay, Việt Nam đã trở thành quốc gia có số người tham gia đầu tư vàng đứng trong nhóm các quốc gia có đầu tư vàng lớn nhất trên thế giới, nếu tiếp tục để thị trường giao dịch tự do thì chắc chắn nhà đầu tư, các NHTM cũng như thị trường vàng trong nước sẽ gặp nhiều rủi ro như thời gian qua.


Với việc thành lập sàn vàng quốc gia, cơ quan quản lý cũng nắm được lượng cung, cầu của thị trường vàng, cung cầu ngoại tệ liên quan đến vàng cũng như lượng tiền giao dịch trên thị trường vàng một cách chính xác, chủ động hơn, để có những điều tiết kịp thời khi biến động xảy ra. Giá vàng do cung cầu xã hội quyết định, nhờ đó làm giảm được lũng đoạn thị trường và thao túng giá, góp phần tạo trật tự khách quan cho công bằng trên thị trường, giảm nhu cầu nhập khẩu và hạn chế xuất nhập khẩu lậu vàng. Nhìn ở góc độ con số thống kê và dự báo, Chính phủ không những biết được giá trị vàng trong nền kinh tế là bao nhiêu để có những biện pháp điều chỉnh thị trường phù hợp, tránh tình trạng vàng gây nhiễu sang thị trường ngoại hối như vừa qua.

Ngoài ra, khi vàng về kho Nhà nước, có thể tạm hiểu là Chính phủ vay vàng của dân và tổ chức để làm dự trữ quốc gia. Trong trường hợp nhất định, có thể chuyển đổi chúng thành tiền hoặc tài sản thanh khoản cao để tái đầu tư vào nền kinh tế. Tất nhiên, hình thức huy động vàng này cũng phải cấp cho người dân và tổ chức chứng chỉ giống như chứng chỉ tiền gửi và Chính phủ phải trả lãi cho người dân, đồng thời cho người dân rút ra khi họ cần thì mới đảm bảo uy tín của Chính phủ. Khi cầm “chứng chỉ vàng” trong tay, người dân và tổ chức được hưởng lãi suất như tiền gửi. Trong trường hợp muốn mua bán thì chỉ cần giao dịch qua tài khoản, an toàn hơn là giao dịch trực tiếp tại các cửa hàng vàng.

Bên cạnh đó, cho mở lại vàng tài khoản trên sàn vàng quốc gia cũng có nhiều lợi ích khác như không tốn thêm ngoại tệ cho việc nhập vàng nhưng vẫn có thể đáp ứng nhu cầu của dân; tiết kiệm được chi phí xã hội khi tận dụng nguồn lực vàng trong dân; triệt tiêu cơ hội làm giá, đầu cơ của giới kinh doanh vàng; hạn chế tình trạng nhập lậu vàng; kiểm soát được số lượng vàng xuất, nhập thông qua hạn mức giao dịch trên tài khoản, giảm rủi ro cho các giao dịch kinh doanh vàng cho các NHTM.

Trên thế giới, không nước nào cho giao dịch vàng miếng tự do như Việt Nam, tuy nhiên, sau khi kênh kinh doanh vàng vật chất bị hạn chế, việc mở kênh giao dịch phi vật chất là cần thiết để đáp ứng nhu cầu của người dân. Nhiều người

Xem tất cả 250 trang.

Ngày đăng: 03/05/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí