Khái Niệm, Phân Loại, Nguyên Nhân Và Hậu Quả Của Rủi Ro Tín Dụng

PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÂN TÍCH RỦI RO TÍN

DỤNG AGRIBANK CHI NHÁNH TỈNH QUẢNG BÌNH

1.1. Các khái niệm về tín dụng và rủi ro tín dụng

1.1.1. Hoạt đông tín dụng của ngân hàng thương mại

1.1.1.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng

Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa bên cho vay (ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, hộ kinh doanh và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán. [5]

- Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có, vốn huy động để cấp tín dụng.

- Cấp tín dụng là việc các tổ chức tín dụng thỏa thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các dịch vụ khác.

- Hoạt động chuyển nhượng sử dụng vốn này kèm theo chi phí và phát sinh

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 115 trang tài liệu này.

rủi ro.

1.1.1.2. Bản chất của tín dụng

Quản lý rủi ro tín dụng khách hàng cá nhân, hộ kinh doanh tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam chi nhánh tỉnh Quảng Bình - 3

Về mặt hình thức, tín dụng là sự chuyển nhượng quyền sử dụng một lượng giá trị nhất định dưới hình thức hiện vật hay tiền tệ trong một thời hạn nhất định từ người sở hữu sang người sử dụng và khi đến hạn, người sử dụng phải hoàn trả lại cho người sở hữu một lượng giá trị lớn hơn. Khoản giá trị dôi ra này được gọi là lợi tức tín dụng.

1.1.1.3. Phân loại tín dụng ngân hàng

Tín dụng ngân hàng có thể chia ra làm nhiều loại khác nhau tùy thuộc vào tiêu thức phân loại khác nhau.

- Theo mục đích của tín dụng: tín dụng sản xuất, lưu thông hàng hóa và tín

dụng tiêu dùng

- Theo thời hạn tín dụng: tín dụng ngắn hạn, tín dụng trung hạn, tín dụng dài hạn.

- Theo mức độ tín nhiệm với khách hàng: tín dụng có bảo đảm và tín dụng không có bảo đảm.

- Theo đối tượng đầu tư của tín dụng: tín dụng vốn cố định, tín dụng vốn lưu động

1.1.1.4. Vai trò của tín dụng ngân hàng

Tín dụng ngân hàng sẽ thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn cho sản xuất,

tọa điều kiện cho các khách hàng tiếp cận được với nguồn vốn trong nền kinh tế.

- Tín dụng ngân hàng tạo động lực thúc đẩy, kiểm soát việc sử dụng vốn vay của khách hàng để vốn vay đó tạo ra hiệu quả kinh tế tốt nhất có thể.

- Tín dụng ngân hàng còn góp phần ổn định, “bôi trơn” sự vận hành của toàn bộ nên kinh tế, tạo điều kiện để phát triển kinh tế cũng như sự hợp tác với các nước trong khu vực và trên thế giới.

- Tín dụng ngân hàng là hoạt động chủ yếu mang về lợi nhuận cho ngân

hàng, giúp hệ thống ngân hàng tồn tại và phát triển vững mạnh.

1.1.2. Khái niệm, phân loại, nguyên nhân và hậu quả của rủi ro tín dụng

1.1.2.1. Khái niệm về rủi ro

Theo từ điển kinh tế, rủi ro có nghĩa là một xác suất hoặc khả năng xảy ra thiệt hại, tổn thất, mất mát hoặc các ảnh hưởng tiêu cực khác gây ra bởi tác động từ bên ngoài hoặc nội bộ và có thể tránh được rủi ro thông qua các biện pháp phòng ngừa.

1.1.2.2 Khái niệm rủi ro tín dụng

Rủi ro tín dụng trong hoạt động Ngân được quy định tại Điều 3 Quy định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của TCTD của Thông tư số 02/2013/TT- NHNN ngày 21/01/2013 của Thống đốc NHNN như sau: “Rủi ro tín dụng là tổn thất có thể xay ra đối với nợ của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình theo cam kết [6].

Rủi ro tín dụng phát sinh trong trường hợp ngân hàng không thu được đầy đủ cả

gốc và lãi của các khoản vay, hoặc việc thanh toán nợ gốc và lãi vay không đúng hạn.

Rủi ro tín dụng là vấn đề đặc biệt được quan tâm không chỉ ở phạm vi các

ngân hàng mà còn trong toàn nền kinh tế.

Rủi ro tín dụng là một loại rủi ro do sự suy giảm về khả năng trả nợ của các khách hàng. Giảm giá trị của khoản cho vay tín dụng không chỉ bao gồm việc không trả được nợ của khách hàng tăng lên mà còn dẫn đến thị trường vốn định giá khả năng tín dụng của công ty qua mức lãi suất cao hơn đối với các công cụ nợ do công ty phát hành, hoặc là việc giảm giá của các cổ phiếu, hoặc làm giảm cấp các đại lý.

Đây cũng chính là việc định giá về chất lượng của các công cụ nợ mà các công ty phát hành.

Rủi ro tín dụng rất nguy hiểm, khi một vài khách hàng quan trọng không trả được nợ có thể gây nên những khoản lỗ lớn cho ngân hàng và có thể dẫn ngân hàng đến tình trạng mất khả năng thanh khoản.

1.1.2.3. Phân loại rủi ro tín dụng

- Rủi ro giao dịch: là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong quá trình giao dịch và xét duyệt cho vay, đánh giá khách hàng. Rủi ro giao dịch có ba bộ phận chính là rủi ro lựa chọn, rủi ro bảo đảm và rủi ro nghiệp vụ.

+ Rủi ro lựa chọn: là rủi ro có liên quan đến quá trình đánh giá và phân tích tín dụng, khi Ngân hàng lựa chọn những phương án vay vốn có hiệu quả để ra quyết định cho vay.

+ Rủi ro bảo đảm phát sinh từ các tiêu chuẩn đảm bảo như các điều khoản trong hợp đồng cho vay, các loại tài sảm đảm bảo, chủ thể đảm bảo, hình thức đảm bảo và mức cho vay trên giá trị của tài sản đảm bảo.

+ Rủi ro nghiệp vụ là rủi ro liên quan đến công tác quản lý khoản vay và hoạt động cho vay, bao gồm cả việc sử dụng hệ thống xếp hạn rủi ro và kỹ thuật xử lý các khoản vay có vấn đề.

- Rủi ro danh mục (Portfolio risk): là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong quản lý danh mục cho vay của Ngân hàng, được phân chia thành hai loại là rủi ro nội tại và rủi ro tập trung

+ Rủi ro nội tại: xuất phát từ các yếu tố, các đặc điểm riêng có, mang tính riêng biệt bên trong của mỗi chủ thể đi vay hoặc ngành, lĩnh vực kinh tế. Nó xuất phát từ đặc điểm hoạt động hoặc đặc điểm sử dụng vốn của khách hàng vay vốn.

+ Rủi ro tập trung là trường hợp Ngân hàng tập trung vốn vay quá nhiều đối với một số khách hàng, cho vay quá nhiều doanh nghiệp hoạt động trong cùng một ngành, một lĩnh vực kinh tế hoặc trong cùng một vùng địa lý nhất định; hoặc cùng một loại hình cho vay có rủi ro cao.

- Nếu phân loại theo tính khách quan, chủ quan của nguyên nhân gây ra rủi ro thì rủi ro tín dụng được phân ra thành rủi ro khách quan và rủi ro chủ quan. Rủi ro khách quan là rủi ro do các nguyên nhân khách quan như thiên tai, địch họa, người vay bị chết, mất tích và các biến động ngoài dự kiến khác làm thất thoát vốn vay trong khi người vay đã thực hiện nghiêm túc chế độ chính sách. Rủi ro chủ quan do nguyên nhân thuộc về chủ quan của người vay và người cho vay vì vô tình hay cố ý làm thất thoát vốn vay hay vì những lý do chủ quan khác.

Rủi ro

tín dụng

Rủi ro

giao dịch

Rủi ro

danh mục

Rủi ro

lựa chọn

Rủi ro

nghiệp vụ

Rủi ro

nội tại

Rủi ro

tập trung

Ngoài ra còn nhiều hình thức phân loại khác như phân loại căn cứ theo cơ cấu các loại hình rủi ro, phân loại theo nguồn gốc hình thành, theo đối tượng sử dụng vốn vay…



Rủi ro

bảo đảm

Sơ đồ 1.1: Phân loại rủi ro tín dụng căn cứ vào nguyên nhân phát sinh rủi ro

1.1.2.4. Nguyên nhân của rủi ro tín dụng.

Trong quan hệ tín dụng có hai đối tượng tham gia là ngân hàng cho vay và người đi vay. Nhưng người đi vay sử dụng tiền vay trong một thời gian, không gian cụ thể,

tuân theo sự chi phối của những điều kiện cụ thể nhất định mà ta gọi là môi trường kinh doanh, và đây là đối tượng thứ ba có mặt trong quan hệ tín dụng. Rủi ro tín dụng xuất phát từ môi trường kinh doanh gọi là rủi ro do nguyên nhân khách quan. Rủi ro xuất phát từ người vay và ngân hàng cho vay gọi là rủi ro do nguyên nhân chủ quan. [7]

Rủi ro tín dụng do nguyên nhân khách quan

- Sự ảnh hưởng của môi trường (thiên tai, bão lụt, dịch bệnh, mất mùa) gây tổn thất chô khách hàng

- Sự biến động của nền kinh tế khó dự đoán gây bất lợi cho khách hàng

- Hàng giả, hàng nhập lậu, hàng kém chất lượng ảnh hưởng đến hoạt động

kinh doanh của khách hàng

- Sự canh tranh chưa lành mạnh, chạy theo quy mô, số lượng, ít quan tâm tới các điều kiện, chất lượng khoản vay

- Rủi ro bởi pháp lý chưa thuận lợi, nhiều khe hở và chưa hiệu quả của cơ

quan pháp luật địa phương

- Thanh, kiểm tra, giám sát chưa chặt chẽ của NHNN

- Hệ thống thông tin tín dụng, hỗ trợ còn bất cập

- Lạm phát, giá cả đầu vào của hàng hoá, nguyên vật liệu tăng, ảnh hưởng đến lợi nhuận của khách hàng gây ra khó khăn tài chính do đó mất khả năng trả nợ

Rủi ro tín dụng nguyên nhân chủ quan của khách hàng

- Khách hàng sử dụng vốn vay không đúng mục đích so với phương án kinh

doanh khi lập phương án

- Khách hàng thiếu trình độ quản lý, năng lực kinh doanh

- Khách hàng tài chính yếu kém như che dấu, không minh bạch

- Xem vốn vay của ngân hàng là tiền nhà nước, làm ăn thua lỗ thì nhà nước chịu (đối với các khoản vay hỗ trợ của nhà nước như vay theo NĐ 67, NĐ 68….)

- Khàng làm ăn thua lổ, hàng hoá tồn kho ứ động không bán được

- Khách hàng cố ý lừa đảo ngân hàng

Rủi ro tín dụng do nguyên nhân chủ quan của ngân hàng

- Thiếu thông tin về khách hàng khi thẩm định dẫn đến quyết định cho vay

sai lầm

- Hệ thống kiểm soát lúc cho vay chưa chặt chẽ

- Rủi ro do sự chủ quan của các cấp có thẩm quyền hay do người phê duyệt

- Việc kiểm tra trong nội bộ còn chưa chặt chẻ

- Nguyên nhân do đạo đức, trình độ của cán bộ

- Sự thiếu quản lý, giám sát không chặt chẻ sau khi cho vay, việc cảnh báo

sớm thiếu hiệu quả dẫn tới không kịp thời xữ lý rủi ro

- Chất lượng của tín dụng thấp do áp lực hoàn thành kế hoạch, chỉ tiêu giao khoán

1.1.2.5. Hậu quả của rủi ro tín dụng

a) Đối với ngân hàng

Khi gặp rủi ro tín dụng, ngân hàng không thu hồi được vốn gốc và lãi vay nhưng vẫn phải trả vốn và lãi vay cho cho khoản tiền huy động khi đến hạn, điều này làm cho ngân hàng bị mất cân đối trong việc thu chi. Khi không thu được nợ thì vòng quay vốn tín dụng bị chậm lại, ngân hàng kinh doanh không hiệu quả và lợi nhuận của ngân hàng giảm, long tin của người gửi tiền vào ngân hàng bị lung lay. Đặc biệt nếu rủi ro tín dụng ở mức quá cao có thể khiến ngân hàng mất khả năng thanh toán, dẫn tới nguy cơ phá sản .

b) Đối với khách hàng

Rủi ro tín dụng làm khả năng chi trả của ngân hàng sụt giảm và những khách hàng gưi tiền có thể không được thanh toán kịp thời khi có nhu cầu rút tiền, chưa kể nguy cơ mất khoản tiền đã gửi nếu ngân hàng phá sản.

Ở gốc độ người vay tiền, khách hàng cũng bị ảnh hưởng bởi nếu có rủi ro tín dụng ở mức độ đáng kể, ngân hàng sẽ phải thi hành chính sách thắt chặt tín dụng lại. Từ đó, khả năng tiếp cận vốn đối với khách hàng sẽ khó khăn hơn.

c) Đối với nền kinh tế

Hoạt động ngân hàng liên quan đến nhiều cá nhân, nhiều lĩnh vực trong nền kinh tế nên một ngân hàng gặp rủi ro tín dụng hoặc bị phá sản sản sẽ dẫn đến tâm lí hoang ang lo sợ từ phía người gửi tiền. Họ có thể theo “tâm lý bầy đàn” và ồ ạt đi rút tiền không chỉ ở ngân hàng đó mà ở các ngân hàng khác làm toàn bộ hệ thống ngân hàng gặp khó khăn trong việc thanh toán. Việc một ngân hàng sụp đổ sẽ tạo nên dây chuyền cho toàn bộ hệ thống ngân hàng khiến nên kinh tế lâm vào khủng hoảng trầm trọng, thất nghiệp tràn lan, xã hội mất ổn định.

1.1.3. Quản lý rủi ro tín dụng

Ngân hàng là một trung gian tài chính có chức năng: Nhận tiền gửi của dân cư, tài chính kinh tế, tài chính tín dụng… và cho vay lại các thành phần kinh tế với lãi suất thích hợp. Ngân hàng có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo sự thanh khoản trong nền kinh tế.

Hiện nay, công tác quản trị rủi ro tín dụng có vai trò cực kỳ quan trọng đối với các ngân hàng nói riêng và cả hệ thống tài chính nói chung. Việc đánh giá, thẩm định và quản lý tốt các khoản cho vay, các khoản dự định giải ngân sẽ hạn chế những rủi ro tín dụng mà ngân hàng sẽ gặp phải, và tất yếu sẽ giảm bớt nợ xấu cho Ngân hàng. [14]

1.1.3.1. Sự cần thiết của quản lý rủi ro tín dụng:

Hoạt động tín dụng ngân hàng bao gồm 2 mặt: sinh lời và rủi ro. Phần lớn các thua lỗ của ngân hàng đều từ hoạt động tín dụng. Xong rủi ro tín dụng luôn tồn tại song song cùng hoạt động của ngân hàng vì vậy đòi hỏi phải quản lí cẩn thận. Trước một quyết định cho vay, cán bộ ngân hàng phải cân nhắc cẩn thận giữa sinh lời và rủi ro. Vì vậy phải quản lí rủi ro tín dụng luôn được coi là nội dung quản lí quan trọng của hoạt động ngân hàng. [10]

1.1.3.2. Nguyên tắc quản lý rủi ro tín dụng ngân hàng

Quản lý rủi ro tín dụng ngân hàng dựa trên hàng loạt các nguyên tắc, sau đây

là một số nguyên tắc cơ bản [8].

- Chấp nhận rủi ro: bản thân hoạt động ngân hàng luôn chứa đựng rủi ro, vì vậy một trong những nguyên tắc của ngân hàng là chấp nhận rủi ro. Rủi ro là sự hiện hữu khách quan trong hoạt động tín dụng ngân hàng, ngân hàng phải biết chấp nhận rủi ro cho phép nếu như mong muốn một mức thu nhập phù hợp. Bởi muốn loại bỏ hoàn toàn rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng là điều không thể.Đây là một xu thế tất yếu của nền kinh tế thị trường.Việc chấp nhận mức độ, loại bỏ rủi ro tín dụng nào chính là điều kiện quan trọng để điều tiết những tác động tiêu cực của chúng trong quá trình quản trị rủi ro tín dụng.

- Điều hành rủi ro cho phép: ngân hàng phải tính toán khả năng gánh chịu rủi ro của mình để thực hiện việc cấp tín dụng cho phù hợp.Không cấp tín dụng cho những món vay không có khă năng khống chế và kiểm soát.

- Quản lý độc lập các rủi ro tín dụng riêng biệt: các rủi ro trong ngân hàng là độc lập nhau chính vì vậy phải có biện pháp quản lý riêng rẽ, không được gộp các rủi ro để đưa ra cùng một phương pháp điều hành. Cùng một loại rủi ro nhưng phải được sắp xếp, phân loại và quản lý theo từng nhóm nhằm phù hợp với yêu cầu quản lý và tuân theo quy định của pháp luật.

- Phù hợp giữa mức độ rủi ro cho phép và mức độ thu nhập: thu từ hoạt động tín dụng là nguồn thu chủ yếu của ngân hàng chính vì vậy không ít ngân hàng đã chạy theo mục tiêu lợi nhuận mà mắc sai sót trong việc quản trị rủi ro. Nguyên tắc này là nền tảng của lý thuyết quản trị rủi ro tín dụng. Các ngân hàngtrong quá trình hoạt động của mình chỉ được phép chấp nhận các loại, mức độ rủi ro tín dụng mà thiệt hại khi chúng xảy ra không được cao quá mức thu nhập phù hợp. Có nghĩa rằng, tất cả các loại rủi ro có mức độ rủi ro cao hơn mức độ thu nhập mong đợi cần phải được loại bỏ.

- Phù hợp giữa mức độ rủi ro cho phép và khả năng tài chính: giá trị thiệt hại mà ngân hàng mong muốn từ những khoản rủi ro tín dụng phải phù hợp với phần vốn mà ngân hàng có thể trích lập dự phòng cho những thiệt hại do chúng gây ra. Đây là nguyên tắc hết sức quan trọng vì khi rủi ro tín dụng xảy ra nó kéo theo sự thiệt hại thu nhập, giảm tiềm năng lợi nhuận và nhịp độ phát triển ngân hàng trong tương lai.

Xem tất cả 115 trang.

Ngày đăng: 01/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí