Quản Lý Hoạt Động Phát Triển Năng Lực Giáo Viên

nhà trường sẽ là lực lượng nòng cốt tham gia trong quá trình kèm cặp, giúp đỡ đồng nghiệp. Giáo viên có kinh nghiệm, có trình độ nghề nghiệp cao hướng dẫn tư vấn cho giáo viên mới cũng được thấy rõ ở các nước Anh, Hoa Kì, Thái Lan.

1.1.2. Ở Việt Nam

Ở nước ta, lịch sử nghiên cứu các vấn đề phát triển đội ngũ giáo viên gắn liền với lịch sử phát triển của nền giáo dục. Hơn 60 năm xây dựng và phát triển nền giáo dục thì hơn 50 năm không ngừng xây dựng và phát triển đội ngũ GV.

Ngay từ những ngày đầu của nước Việt Nam độc lập, Đảng và Nhà nước ta đã dành sự quan tâm sâu sắc tới việc phát triển đội ngũ giáo viên và Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã từng khẳng định: "Nếu không có thầy cô giáo thì không có giáo dục". Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, công nghệ thông tin, khoa học kĩ thuật phát triển như vũ bão. Để đào tạo được những công dân tốt đáp ứng nhu cầu đổi mới đất nước rất cần nâng cao chất lượng của đội ngũ giáo viên. Có thể nói, năng lực của đội ngũ giáo viên quyết định lớn tới chất lượng và kết quả giáo dục. Ngược lại, chất lượng và hiệu quả giáo dục sẽ quyết định năng lực đội ngũ giáo viên đáp ứng nhu cầu đổi mới của xã hội.

Có nhiều công trình nghiên cứu về phát triển năng lực GV, theo tác giả Trần Bá Hoành, năng lực của giáo viên bao gồm: năng lực chuẩn đoán nhu cầu và đặc điểm đối tượng dạy học, năng lực thiết kế kế hoạch, năng lực tổ chức thực hiện kế hoạch dạy học, năng lực giải quyết các vấn đề nảy sinh trong quá trình dạy học, năng lực và phẩm chất (thể hiện ở lòng yêu nghề, mến trẻ) của GV tạo nên chất lượng GV [9].

Trong bài “Nghề và Nghiệp của người giáo viên” đăng tải trong Kỷ yếu Hội thảo nâng cao chất lượng đào tạo toàn quốc lần thứ 2, tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc đã đề cập tính chất nghề nghiệp của người giáo viên. Tác giả đã nhấn mạnh đến vấn đề “lý tưởng sư phạm”, cái tạo nên động cơ cho việc thực hành nghề dạy học của người GV, thôi thúc người GV sáng tạo, thúc đẩy người GV không ngừng học hỏi, nâng cao trình độ [11].

Trong bài viết “Đổi mới mô hình đào tạo GV trong các trường đại học sư phạm theo hướng tiếp cận năng lực” đăng trên Tạp chí giáo dục (Tháng 1/2012), các tác giả TS Bùi Minh Đức, TS Đào Thị Việt Anh, ThS Hoàng Thị Kim Huyền đã nêu: Cùng với việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông theo hướng tiếp cận năng lực, các chương trình đào tạo và bồi dưỡng giáo viên cũng được cải tiến, điều chỉnh, thậm chí đổi mới toàn bộ theo chủ trương hình thành và phát triển các năng lực nghề nghiệp cho người dạy học [19].

Đối với hoạt động quản lý phát triển năng lực giáo viên đã được một số tác giả đề cập trong các đề tài về phát triển đội ngũ giáo viên. Tác giả Lục Thị Nga (2007) với đề tài "Quản lý hoạt động tự bồi dưỡng sư phạm của giáo viên trường THCS trong giai đoạn hiện nay” [13]. Những biện pháp quản lý bồi dưỡng giáo viên được thể hiện trong các công trình nghiên cứu về phát triển đội ngũ giáo viên của tác giả Đỗ Thế Hưng, Quản lý bồi dưỡng năng lực dạy học cho giảng viên trường Đại học văn hóa nghệ thuật quân đội [10], Tác giả Ngô Thị Minh Thực (2014), Quản lý bồi dưỡng giảng viên cao đẳng sư phạm đáp ứng đổi mới giáo dục hiện nay [16]. Tác giả Đồng Thế Hiển (2016), Quản lý bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho giảng viên giáo dục quốc phòng và an ninh các trường đại học [7].

Các biện pháp quản lý phát triển năng lực giáo viên còn được được đề cập trong một số công trình về phát triển đội ngũ giáo viên các trường trung học phổ thông có các công trình của tác giả Trần Kiểm và Phạm Minh Hạc.

Tóm lại: Quản lý phát triển năng lực giáo viên đã được nhiều tác giả đưa ra trong các đề tài nghiên cứu về phát triển đội ngũ giáo viên nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên. Tuy nhiên, đến nay chưa có một đề tài nghiên cứu khoa học nào đề cập đến vấn đề quản lý phát triển năng lực GV THCS thành phố Cẩm Phả, Quảng Ninh. Vì vậy, việc nghiên cứu “Quản lý phát triển năng lực giáo viên ở các trường THCS thành phố Cẩm Phả, Quảng Ninh đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông” là rất cần thiết.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 135 trang tài liệu này.

1.2. Một số khái niệm

1.2.1. Giáo viên, giáo viên THCS

Quản lý phát triển năng lực giáo viên ở các trường trung học cơ sở thành phố Cẩm Phả, Quảng Ninh đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông - 3

Luật Giáo dục (2005) xác định: “Nhà giáo là người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà trường, cơ sở giáo dục khác” (khoản 1, điều 70). Cụ thể hơn tại khoản 3 điều 70, Luật Giáo dục còn nêu rõ “Nhà giáo giảng dạy ở cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp gọi là giáo viên; ở cơ sở giáo dục đại học gọi là giảng viên” [12].

Ðiều lệ trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và trường phổ thông có nhiều cấp học, ở chương IV, điều 30 có nêu: “Giáo viên trường trung học là người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà trường gồm: hiệu trưởng, phó hiệu trưởng, giáo viên bộ môn, giáo viên làm công tác Ðoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh (bí thư, phó bí thư hoặc trợ lý thanh niên, cố vấn Ðoàn) đối với trường trung

học có cấp THPT, giáo viên làm tổng phụ trách Ðội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh (đối với trường trung học có cấp tiểu học hoặc cấp THCS)” [4].

Theo định nghĩa trên, thì giáo viên trường Trung học bao gồm cả cán bộ quản lý giáo dục và các giáo viên phụ trách công tác đoàn thể hoặc công tác khác trong mọi hoạt động của nhà trường.

Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, khi đề cập khái niệm giáo viên là chủ yếu chỉ nói đến các đối tượng nhà giáo là giáo viên trực tiếp làm công tác giảng dạy các bộ môn (giáo viên bộ môn) và giáo dục học sinh ở trường trung học cơ sở.

1.2.2. Năng lực

Đối với mỗi ngành khoa học, tùy vào đối tượng nghiên cứu của từng lĩnh vực mà khái niệm năng lực được định nghĩa khác nhau:

Dưới góc độ Tâm lý học: "Năng lực là tổ hợp các thuộc tính độc đáo của cá nhân phù hợp với những yêu cầu đặc trưng của một hoạt động nhất định, nhằm đảm bảo có kết quả tốt trong lĩnh vực hoạt động ấy" [18].

Theo từ điển GDH: "Năng lực là khả năng được hình thành hoặc phát triển cho phép một con người đạt thành công trong một hoạt động thể lực, trí lực hoặc nghề nghiệp. Năng lực được thể hiện vào khả năng thi hành một hoạt động, thực hiện một nhiệm vụ" [23].

Theo từ điển tiếng Việt của nhà xuất bản Bách khoa thì “Năng lực là sức làm được việc của con người” [24]. Người nào có năng lực trong lĩnh vực nào thì được mọi người nể phục, trọng dụng, khuyến khích, nêu gương trong lĩnh vực đó. Ngược lại, nếu chưa có năng lực hay năng lực yếu thì phải học tập, bồi dưỡng tiếp để làm tốt nhiệm vụ được giao. Năng lực thể hiện tài năng của mỗi con người, tính “chuyên nghiệp” của con người trong một lĩnh vực nhất định.

Tác giả Nguyễn Minh Đường cho rằng: “Năng lực là những kiến thức, kỹ năng, thái độ cần thiết để người lao động có thể thực hiện được công việc của nghề đạt chuẩn quy định trong những điều kiện cho trước” [6].

Các định nghĩa kể trên mặc dù có sự khác nhau nhưng hầu hết đều có chung đặc điểm: Năng lực bao gồm một loạt các kiến thức, kỹ năng, thái độ hay các đặc tính cá nhân khác cần thiết để thực hiện công việc thành công. Những yếu tố này phải quan sát hay đo lường được để có sự phân biệt giữa người có năng lực và người không có năng lực.

Năng lực của giáo viên THCS hiện nay được đánh giá qua bộ công cụ chuẩn nghề nghiệp giáo viên THCS theo Thông tư số 30/2009/TT-BGDĐT ngày 22 tháng 10 năm 2009 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về chuẩn nghề nghiệp giáo viên THPT và THCS [3].

1.2.3. Phát triển năng lực giáo viên THCS

* Phát triển:

Theo nghĩa triết học: phát triển là sự biến đổi từ ít đến nhiều, từ hẹp đến rộng, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Xu hướng và con đường phát triển theo hình xoáy trôn ốc, tạo thành xu thế phát triển từ thấp lên cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Phát triển là quá trình nội tại, tạo ra sự hoàn thiện của tự nhiên và xã hội. Hiểu một cách đơn giản phát triển là “mở rộng ra, làm cho mạnh hơn lên, tốt hơn lên” [14]

Theo Từ điển Tiếng Việt, phát triển được hiểu là: "Sự biến đổi hoặc làm cho biến đổi theo chiều hướng tăng, từ ít đến nhiều, hẹp đến rộng, thấp đến cao, đơn giản đến phức tạp" [26].

Theo quan niệm này thì tất cả các sự vật, hiện tượng, con người và xã hội tự thân biến đổi hoặc tác động bên ngoài làm cho biến đổi tăng lên cả về số lượng, chất lượng thì đó chính là sự phát triển. Phát triển là xu hướng vận động của mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội, đời sống con người. Tất cả mọi sự vật, hiện tượng, con người, xã hội tự thân biến đổi để tăng về số lượng, thay đổi chất lượng hoặc dưới tác động của bên ngoài làm cho biến đổi tăng tiến đều được coi là sự phát triển.

Tóm lại, phát triển là nhu cầu tự thân của mọi sự vật, hiện tượng. Mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan đều vận động, phát triển không ngừng theo quy luật nhất định. Dưới góc độ của khoa học quản lý giáo dục có thể hiểu: Phát triển được xem là tác động có mục đích, có tổ chức của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý, nhằm tổ chức, điều khiển quá trình biến đổi của đối tượng quản lý phù hợp với quy luật phát triển, đáp ứng nhu cầu của thực tiễn.

Theo đó, phát triển năng lực giáo viên THCS được hiểu như sau:

* Phát triển năng lực giáo viên THCS

Từ những quan niệm về phát triển, năng lực, theo chúng tôi phát triển năng lực giáo viên THCS là quá trình chuyển hóa, gia tăng những khả năng sẵn có của mỗi cá nhân giáo viên thành những năng lực hiện thực để thực hiện tốt nghề nghiệp góp phần nâng cao chất lượng dạy học và giáo dục ở nhà trường THCS.

Phát triển năng lực của giáo viên THCS là quá trình hoàn thiện nhân cách của người giáo viên đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục ở nhà trường THCS và xu thế vận động, phát triển của nền giáo dục hiện nay. Đó là quá trình chuyển hóa là quá trình biến đổi gia tăng, biến đổi về chất các năng lực của GV THCS nhằm chuẩn hóa đội ngũ giáo viên đáp ứng yêu cầu phát triển của trường THCS trong giai đoạn hiện nay.

1.2.4. Quản lý hoạt động phát triển năng lực giáo viên

* Quản lý

Thuật ngữ quản lý đã trở nên phổ biến, tuy nhiên hiện nay các định nghĩa chưa thống nhất. Các nhà khoa học đã đưa ra nhiều định nghĩa quản lý từ các góc nhìn khác nhau:

Theo quan điểm kinh tế học Taylor thì: "Quản lý là một nghệ thuật biết rõ ràng, chính xác cái gì cần làm và làm cái đó thế nào bằng phương pháp tốt nhất và rẻ tiền nhất" [20].

Fayon lại cho rằng: "Quản lý là một quá trình hướng tới mục tiêu của tổ chức thông qua việc huy động các nguồn lực như thế nào để chi phí thời gian, tiền của ít nhất nhưng lại hiệu quả" [17].

Theo chúng tôi, quan niệm của tác giả Nguyễn Thị Tính về “Quản lý” trong cuốn “Giáo trình lý luận chung về quản lý và quản lý giáo dục” là phù hợp với nghiên cứu của mình hơn cả: “Quản lý là sự tác động có mục đích, kế hoạch của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý trong tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành đạt được mục tiêu đề ra” [21].

Như vậy, từ những cách tiếp cận khái niệm về quản lý cho thấy quản lý bao giờ cũng tồn tại với tư cách là một hệ thống bao gồm có hai yếu tố: Chủ thể quản lý và khách thể quản lý. Chủ thể quản lý là tác nhân tạo ra các hoạt động, còn khách thể quản lý là người chịu sự quản lý của chủ thể quản lý. Giữa chủ thể quản lý và khách thể quản lý phải có chung một mục tiêu và quy trình, dựa vào đó làm căn cứ để chủ thể tạo ra các tác động. Hai thành phần này có mối quan hệ, tác động qua lại tương hỗ lẫn nhau.

Quản lý là sự tác động liên tục có định hướng, có mục đích, có kế hoạch và có hệ thống thông tin của chủ thể quản lý (người quản lý, tổ chức quản lý) đến khách thể (đối tượng quản lý) về các mặt chính trị, văn hoá, xã hội, kinh tế... bằng một hệ thống các luật lệ, các chính sách, các nguyên tắc, các phương pháp và các biện pháp cụ thể

nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các tiềm năng, các cơ hội của tổ chức để đạt được mục tiêu đặt ra trong điều kiện biến động của môi trường, làm cho tổ chức hoạt động có hiệu quả.

Từ cách hiểu khái niệm quản lý theo quan niệm trên, theo chúng tôi quản lý phát triển năng lực giáo viên có thể hiểu như sau:

* Quản lý phát triển năng lực giáo viên

Quản lý phát triển năng lực giáo viên THCS là sự tác động có mục đích, kế hoạch của chủ thể quản lý đến hoạt động phát triển năng lực giáo viên THCS nhằm làm biến đổi, gia tăng các năng lực hoạt động nghề nghiệp của đội ngũ giáo THCS nhằm đáp ứng yêu cầu của đổi mới giáo dục phổ thông, góp phần đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, phục vụ sự nghiệp CNH - HĐH.

Phát triển năng lực của giáo viên THCS là quá trình tác động có tổ chức, có mục đích của Sở giáo dục- đào tạo, Phòng GD, cán bộ quản lý nhà trường THCS đến đội ngũ giáo viên THCS để họ tự giác, tích cực chuyển hóa những năng lực sẵn có thành giá trị nhân cách, phù hợp với chuẩn giáo viên THCS. Từ đó, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục ở nhà trường THCS hiện nay.

Chủ thể quản lý của hoạt động quản lý phát triển năng lực giáo viên THCS là hệ thống đa cấp bao gồm: Bộ GD-ĐT, Sở giáo dục - đào tạo; Phòng giáo dục - đào tạo; Đội ngũ cán bộ quản lý trường THCS... Tuy nhiên trong đề tài này chúng tôi quan tâm tới vai trò của chủ thể quản lý trực tiếp và gần nhất là Hiệu Trưởng trường THCS.

Đối tượng quản lý là toàn bộ hoạt động phát triển năng lực nghề nghiệp của giáo viên bao gồm việc lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra, đánh giá hoạt động phát triển năng lực nghề nghiệp giáo viên THCS nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục trong giai đoạn hiện nay.

1.3. Phát triển năng lực giáo viên THCS đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông

1.3.1. Vị trí, nhiệm vụ của giáo viên THCS

Trong điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội phát triển hiện nay, người giáo viên nói chung và giáo viên THCS nói riêng đã thực sự được đưa lên vị trí xã hội xứng đáng, Đảng ta đã khẳng định: “Giáo viên là lực lượng cốt cán trong sự nghiệp phát triển văn hóa - giáo dục”, “là lực lượng trung tâm quyết định chất lượng giáo dục và đào tạo [4].

Giáo viên là lực lượng quan trọng nhất trong nhà trường, là cầu nối học sinh với nhà trường, gia đình và các lực lượng xã hội. Nghị quyết lần 2 Ban chấp hành Trung

ương Đảng khóa VIII đã nêu: “Giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng và được xã hội tôn vinh. Giáo viên phải có đủ đức, đủ tài” [5]. Nghị quyết của Hội nghị Trung ương 4 khóa VI cũng đặc biệt quan tâm đến xây dựng đội ngũ quản lý giáo dục và đội ngũ nhà giáo cần có đủ đức, đủ tài để chấn hưng nền giáo dục nước nhà và chú trọng việc nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất lối sống của nhà giáo.

Chất lượng dạy học và giáo dục của nhà trường phụ thuộc vào trình độ và khả năng của đội ngũ giáo viên là chủ yếu. Vì thế vai trò của giáo viên lại càng nặng nề hơn bao giờ hết. Như Tiến sĩ Raja Rosingh, nhà giáo dục Ấn Độ, chuyên gia giáo dục UNESCO khu vực Châu Á - Thái Bình Dương có lời bình khá ấn tượng về tầm quan trọng của người giáo viên trong bối cảnh giáo dục đi vào thế kỷ XXI: “Giáo viên giữ vai trò quyết định trong quá trình giáo dục và đặc biệt trong việc định hướng lại giáo dục. Không một hệ thống giáo dục nào có thể vươn cao quá tầm những giáo viên làm việc cho nó” [15].

Để xứng đáng với vị trí được xã hội tôn vinh và là nhân tố chính quyết định chất lượng giáo dục, đòi hỏi đội ngũ giáo viên trong nhà trường nói chung và đội ngũ giáo viên trong trường THCS nói riêng phải thường xuyên học tập, bồi dưỡng, rèn luyện, từ đó mới có đủ khả năng thực hiện sứ mệnh của mình, mới xứng đáng là nguyên khí của một trường THCS.

* Nhiệm vụ

Theo thông tư 12/2011/TT-BGDĐT giáo viên THCS có nhiệm vụ cơ bản sau:

Dạy học và giáo dục theo chương trình, kế hoạch giáo dục, kế hoạch dạy học của nhà trường theo chế độ làm việc của giáo viên do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định; quản lý học sinh trong các hoạt động giáo dục do nhà trường tổ chức; tham gia các hoạt động của tổ chuyên môn; chịu trách nhiệm về chất lượng, hiệu quả giáo dục; tham gia nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng;

Tham gia công tác phổ cập giáo dục ở địa phương;

Rèn luyện đạo đức, học tập văn hoá, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ để nâng cao chất lượng, hiệu quả giảng dạy và giáo dục; vận dụng các phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo, rèn luyện phương pháp tự học của học sinh;

Thực hiện Điều lệ nhà trường; thực hiện quyết định của Hiệu trưởng, chịu sự kiểm tra, đánh giá của Hiệu trưởng và các cấp quản lý giáo dục;

Giữ gìn phẩm chất, danh dự, uy tín của nhà giáo, gương mẫu trước học sinh; thương yêu, tôn trọng học sinh, đối xử công bằng với học sinh, bảo vệ các quyền và

lợi ích chính đáng của học sinh; đoàn kết, giúp đỡ đồng nghiệp; tạo dựng môi trường học tập và làm việc dân chủ, thân thiện, hợp tác, an toàn và lành mạnh;

Phối hợp với giáo viên chủ nhiệm, các giáo viên khác, gia đình học sinh, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh trong dạy học và giáo dục học sinh;

Thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật.

1.3.2. Những nội dung đổi mới giáo dục phổ thông hiện nay và những yêu cầu đối với năng lực giáo viên trung học cơ sở

Ngày 27 tháng 3 năm 2015 Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt và công bố Đề án đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông, đề án đề ra đến năm 2018 cả nước sẽ áp dụng chương trình này. Việc áp dụng chương trình giáo dục phổ thông tổng thể góp phần tích cực thực hiện thắng lợi Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá XI) với nội dung đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa - hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập Quốc tế “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới từ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt động quản trị của các cơ sở giáo dục, đào tạo và việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản thân người học; đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học...” [1].

Nội dung chương trình giáo dục phổ thông mới gồm các môn học sau: Ngôn ngữ và văn học; Toán học; Đạo đức - Công dân; Thể chất; Nghệ thuật; Khoa học Xã hội; Khoa học Tự nhiên; Công nghệ - Tin học.

Môn học cốt lõi của lĩnh vực giáo dục đạo đức – công dân cấp THCS có tên: Giáo dục công dân (trung học cơ sở); Cốt lõi trong lĩnh vực giáo dục khoa học (khoa học tự nhiên và khoa học xã hội) tương ứng với 2 môn học Khoa học Xã hội và Khoa học Tự nhiên ; Các môn học ở cả 3 cấp học được chia thành môn học bắt buộc (BB) và môn học tự chọn (TC). Các môn học tự chọn gồm 3 loại: Tự chọn tuỳ ý: học sinh có thể chọn hoặc không chọn (TC1); tự chọn trong nhóm môn học: học sinh buộc

Xem tất cả 135 trang.

Ngày đăng: 21/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí