Thực Trạng Các Quy Định Pháp Luật Về Chứng Thực Ở Việt Nam

thực, các hoạt động thanh tra, kiểm tra và xử lý các vi phạm về chứng thực cần được tiến hành thường xuyên, liên tục làm sáng tỏ và xử lý nghiêm minh, kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật đó.

Như vậy, thanh tra, kiểm tra hoạt động chứng thực, giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo các vi phạm các quy định pháp luật về chứng thực là hoạt động củng cố, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của xây dựng, tổ chức thực hiện các quy định pháp luật về chứng thực. Đó là một nội dung của quản lý nhà nước về chứng thực ở nước ta hiện nay.

1.2.5 Nguyên tắc quản lý nhà nước về chứng thực

Một là nguyên tắc đảm bảo tính quyền lực nhà nước trong hoạt động chứng thực

Tính quyền lực trong hoạt động quản lý nhà nước về chứng thực thể hiện ở chỗ chủ thể tiến hành quản lý là các cơ quan quyền lực nhà nước như Chính phủ, UBND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Bộ ngoại giao..các cơ quan nhà nước có thẩm khác quyền căn cứ vào qui định của pháp luật về chứng thực đề ra các quyết định, các văn bản quy phạm pháp luật có tính bắt buộc chung cho đối tượng quản lý nhằm đảm bảo hoạt động chứng thực được tuân thủ theo qui định của pháp luật. Bởi hoạt động chứng thực là một trong các hoạt động chính của UBND cấp huyện, UBND cấp xã có ảnh hưởng lớn đến đời sống cũng như quyền và nghĩa vụ hợp pháp của người dân.

Hai là nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành và quản lý theo lãnh thổ

Quản lý nhà nước theo ngành và quản lý nhà nước theo lãnh thổ là hai mặt không tách rời nhau mà phải được kết hợp chặt chẽ với nhau.Các cơ quan Tư pháp đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc song trùng trực thuộc chịu sự quản lý theo Ngành là cơ quan Tư pháp cấp trên mà cao nhất là Bộ Tư pháp. Mặc khác, các cơ quan Tư pháp được nằm trong cơ cấu và tổ chức của UBND các cấp chịu sự quản lý theo địa giới hành chính.Bộ Tư pháp phải chịu trách nhiệm trước Chính phủ về quản lý ngành của mình.

Hoạt động quản lý theo ngành của cơ quan nhà nước nhằm đề ra các chủ trương, chính sách phát triển toàn ngành Tư pháp trong đó có hoạt động chứng thực,

tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động chứng thực được pháp triển và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân tổ chức.

Hoạt động quản lý theo lãnh thổ đối với hoạt động Tư pháp nói chung và hoạt động chứng thực nói riêng nhằm tổ chức sự điều hòa, phối hợp các hoạt động của ngành Tư pháp trên phạm vi cả nước cũng nhưng trên từng đơn vị hành chính lãnh thổ với mục tiêu đảm bảo pháp chế XHCN, tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong hoạt động chứng thực.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 123 trang tài liệu này.

Ba là đảm bảo tính xác thực, tính hợp pháp và giá trị pháp lý của văn bản chứng thực.

Hoạt động chứng thực là một trong những thủ tục hành chính, một thể chế không thể thiếu được của Nhà nước pháp quyền để đảm bảo giá trị pháp lý, sự an toàn của các giao dịch, hợp đồng cũng như bảo đảm việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của các chủ thể khi tham gia hoạt động chứng thực. Văn bản chứng thực có giá trị xác thực, giá trị pháp lý và độ tin cậy hơn hẳn các loại giấy tờ không có chứng nhận xác thực. Bằng việc quản lý nhà nước sẽ đảm bảo trật tự, kỷ cương, ổn định trong việc quản lý hoạt động chứng thực; từ đó cũng góp phần làm giảm đáng kể việc giải quyết tranh chấp luôn là gánh nặng của các cơ quan chức năng và giúp các cơ quan chức năng quản lý tốt hơn xã hội.

Quản lý nhà nước về chứng thực - Qua thực tiễn Thành phố Hà Nội - 5

Trên đây là ba nguyên tắc cơ bản trong quản lý nhà nước về chứng thực mà chúng ta cần quan tâm.Ngoài ra, để đảm bảo quản lý có hiệu quả các cơ quan quản lý nhà nước về chứng thực còn phải tuân thủ các nguyên tắc quản lý nhà nước nói chung như: nguyên tắc Đảng lãnh đạo, nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc pháp chế XHCN mà luận văn đã trình bày ở phần trên.

1.2.6 Chủ thể quản lý nhà nước về chứng thực

Việc tổ chức các cơ quan nhà nước về chứng thực được tổ chức theo mô hình thống nhất quản lý từ Trung ương đến địa phương và kết hợp giữa quản lý ngành, lĩnh vực với quản lý theo lãnh thổ. Theo đó Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký. Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm trước Chính phủ trong việc thực hiện quản lý nhà nước về

cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký. Bộ Tư pháp là Bộ quản lý ngành trực thuộc Chính phủ, tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Trong khi đó, Bộ Tư pháp lại tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung và thống nhất. Đây là điểm hết sức đặc thù trong tổ chức bộ máy Chính phủ, cho thấy dù về tổ chức có sự thay đổi, song vị trí, chức năng, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của ngành Tư pháp trong đó có hoạt động chứng thực vẫn được khẳng định.

Bộ Ngoại giao có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tư pháp trong việc hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra, tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký của cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài và viên chức lãnh sự, viên chức ngoại giao được giao thực hiện nhiệm vụ.

Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tư pháp trong việc thực hiện quản lý nhà nước về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký.

UBND các cấp thực hiện việc quản lý nhà nước về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký tại địa phương

Ngoài các cơ quan có thẩm quyền quản lý nhà nước về chứng thực còn có các cơ quan thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động quản lý đó. Đây là những chủ thể được pháp luật trao quyền kiểm tra, giám sát các hoạt động quản lý nhà nước ở tất cả các lĩnh vực nói chung và lĩnh vực chứng thực nói riêng đó là Quốc hội, đại biểu Quốc hội, HĐND các cấp, trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình giám sát việc thi hành các quy định pháp luật về chứng thực; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận động viên nhân dân nghiêm chỉnh thi hành các quy định pháp luật về chứng thực; giám sát việc thi hành các quy định pháp luật về chứng thực theo quy định của pháp luật; nhân dân, chủ thể thực hiện giám sát đối với các hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước về chứng thực. Nhân dân thực hiện giám sát thông qua các đại biểu của mình ở các cơ quan quyền lực Trung ương hoặc địa phương, hoặc thực hiện các quyền khiếu nại, tố cáo

các cơ quan, cán bộ, công chức đã vi phạm hoặc cho là đã vi phạm các quy định pháp luật về chứng thực. Việc xác định nhân dân là chủ thể quản lý nhà nước về chứng thực trong hoạt động giám sát, cho thấy bản chất dân chủ trong quản lý nhà nước về chứng thực ở nước ta.

1.2.7 Yêu cầu quản lý nhà nước về chứng thực

Một là yêu cầu kết hợp giữa quản lý ngành và quản lý theo lãnh thổ

Yêu cầu kết hợp quản lý theo ngành và theo lãnh thổ đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa quản lý theo ngành và quản lý theo lãnh thổ đối với hoạt động chứng thực. Cả hai chiều quản lý đều phải có trách nhiệm chung trong việc thực hiện mục tiêu của ngành cũng như của lãnh thổ. Sự kết hợp này sẽ tránh được tư tưởng bản vị của bộ, ngành, trung ương và tư tưởng cục bộ địa phương của chính quyền địa phương.

Hoạt động chứng thực phải được thực hiện quản lý đồng thời cả hai chiều vừa phải chịu sự quản lý của ngành (Bộ) đồng thời nó cũng phải chịu sự quản lý theo lãnh thổ của chính quyền địa phương. Có sự phân công quản lý rành mạch cho các cơ quan quản lý theo ngành và theo lãnh thổ, không trùng lặp, không bỏ sót về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn. Các cơ quan quản lý nhà nước về chứng thực theo mỗi chiều thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý theo thẩm quyền của mình trên cơ sở đồng quản hiệp quản, tham quản với cơ quan nhà nước thuộc chiều kia, theo quy định cụ thể của Nhà nước. Đồng quản là cùng có quyền và cùng nhau ra quyết định quản lý theo thể thức liên tịch. Hiệp quản là cùng nhau ra quyết định quản lý theo thẩm quyền, theo vấn đề thuộc tuyến của mình nhưng có sự thương lượng, trao đổi, bàn bạc để hai loại quyết định của mỗi bên tương đắc với nhau. Tham quản là việc quản lý, ra quyết định của mỗi bên phải trên cơ sở được lấy ý kiến của bên kia

Hai là yêu cầu đảm bảo tính nhanh chóng và kịp thời

Hoạt động quản lý nhà nước nói chung và hoạt động quả lý nhà nước về chứng thực nói riêng là hoạt động mang tính nhanh chóng và kịp thời xuất phát từ yêu cầu của hoạt động chứng thực. Các cơ quan có thẩm quyền phải luôn luôn dự tính những công việc của tương lai phù hợp với sự vận động, phát triển của thực tế

khách quan, nhưng trên thực tế người quản lý chỉ dự tính được những đường hướng cơ bản, những vấn đề có tính tất yếu, tính quy luật, không thể dự tính hết được những sự kiện không bình thường, những cái ngẫu nhiên trong quá trình phát triển - những sự kiện không bình thường trong hoạt động chứng thực nhằm đảm bảo quản lý nhà nước có hiệu quả cũng như xử lý kịp thời những yêu cầu của thực tiễn.

Ba là yêu cầu về cải cách hành chính, cải cách tư pháp

Yêu cầu về cải cách hành chính, cải cách tư pháp được thể hiện trước hết và tập trung trong việc xây dựng các quy định pháp luật về chứng thực; kiện toàn bộ máy các cơ quan quản lý nhà nước về chứng thực; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ;.. Đồng thời đáp ứng yêu cầu về cải cách hành chính, cải cách tư pháp trong hoạt động chứng thực cũng đòi hỏi cán bộ có trách nhiệm phải tạo điều kiện thuận lợi cho người dân có thể dễ dàng thuận lợi trong hoạt động chứng thực, tuyệt đối không được yêu cầu người dân phải nộp hoặc xuất trình các loại giấy tờ không có trong quy định của pháp luật như tình trạng xảy ra tại một số đơn vị hành chính cấp xã trong thời gian qua.

Yêu cầu về cải cách hành chính, cải cách tư pháp đồng thời cũng đòi hỏi cán bộ Tư pháp phải rèn luyện, nâng cao ý thức trách nhiệm, năng lực chuyên môn nghiệp vụ theo hướng chuyên nghiệp hoá.


KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Trong chương 1, với đề tài “Quản lý nhà nước về chứng thực – qua thực tiễn Thành phố Hà Nội”, luận văn đã làm rõ một số vấn đề lý luận quản lý nhà nước về chứng thực đã đưa ra được khái niệm, đặc điểm thuật ngữ “chứng thực”, phân loại hoạt động chứng thực; đưa ra được khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc của quản lý nhà nước; đưa ra được khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc, nội dung quản lý nhà nước về chứng thực; nêu ra vai trò của quản lý nhà nước về chứng thực

Nội dung quan trọng của Chương 1 là đã phân tích đặc điểm, nội dung, nguyên tắc của quản lý nhà nước về chứng thực.

Các quy định pháp luật về chứng thực là công cụ và là cơ sở để tạo ra chuẩn

mực quản lý nhà nước về chứng thực do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành và đòi hỏi phải có sự phối hợp đồng bộ, chặt chẽ. Chính phủ là cơ quan quản lý thống nhất về chứng thực có vai trò đặc biệt quan trọng trong xây dựng các quy định pháp luật về chứng thực.

Thực hiện các quy định pháp luật về chứng thực được tiến hành trên hai bình diện: triển khai thực hiện pháp luật và áp dụng pháp luật. Trong đó, áp dụng các quy định pháp luật là yếu tố quyết định sự tuân thủ nghiêm minh các quy định pháp luật về chứng thực, tăng cường và nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực tế quản lý nhà nước trong các hoạt động chứng thực.

Tổ chức bảo vệ các quy định pháp luật về chứng thực được tiến hành bằng các hoạt động thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm các quy định pháp luật về chứng thực. Trong đó, thanh tra, kiểm tra nhằm phát hiện những sơ hở, khiếm khuyết, vi phạm pháp luật để có biện pháp xử lý, khắc phục kịp thời; vi phạm pháp luật hải quan tuỳ theo mức độ, hình thức vi phạm mà bị áp dụng xử lý chế tài hành chính hoặc hình sự. Hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo trước hết nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của pháp nhân, công dân, đồng thời, phát huy dân chủ và vai trò giám sát của nhân dân đối với hoạt động quản lý nhà nước về chứng thực.

Chương 2

THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ CHỨNG THỰC – QUA THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI


2.1 Thực trạng các quy định pháp luật về chứng thực ở Việt Nam

2.1.1 Các giai đoạn hình thành và phát triển của các quy định pháp luật về chứng thực

Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1990

Ở Việt Nam, sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 15/11/1945 Nhà nước ta đã ban hành sắc lệnh số 59/SL quy định về "Thể lệ thị thực các giấy tờ". Tiếp đó, ngày 29/02/1952 Sắc lệnh số 85/SL về "Thể lệ trước bạ về việc mua, bán, cho, đổi nhà cửa, ruộng đất" được ban hành. Theo hai Sắc lệnh này, một số việc chứng nhận các giấy tờ giao cho Uỷ ban kháng chiến hành chính (nay là UBND) các cấp thực hiện.

Sau mấy chục năm không tổ chức hoạt động chứng thực, ngày 10/10/1987 Bộ Tư pháp đã ra Thông tư số 574/QLTPK về công chứng nhà nước, nhằm đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước. Công tác chứng thực của UBND các địa phương được cải tiến và nâng cao một bước về chất lượng; đồng thời Phòng Công chứng nhà nước tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh được thành lập.

Giai đoạn 1991 đến năm 2005

Ngày 27/02/1991, Hội đồng bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành Nghị định 45/HĐBT về tổ chức và hoạt động Công chứng nhà nước. Đây là văn bản đầu tiên quy định toàn diện về tổ chức và hoạt động công chứng trong bối cảnh một số quy định liên quan đến công chứng trong các văn bản quy phạm pháp luật có giá trị cao hơn đã được ban hành, như: Pháp lệnh thừa kế (30/8/1990), Pháp lệnh nhà ở và Pháp lệnh hợp đồng kinh tế được ban hành gần như cùng thời điểm (26/3/1991 và 29/4/1991). Nghị định số 45/HĐBT ngày 27/2/1991 đã hình thành quan niệm về Công chứng Nhà nước là việc chứng nhận tính xác thực các hợp đồng và giấy tờ theo quy định của pháp luật nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và

cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế tổ chức xã hội góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nghị định này cũng định nghĩa Công chứng viên chứng nhận bản sao giấy tờ, tài liệu từ bản chính. Các huyện, thị xã nơi chưa có phòng công chứng Nhà nước UBND huyện, thị xã được quyền thực hiện các việc công chứng, cụ thể là: Chứng nhận hợp đồng dân sự; chứng nhận giấy ủy quyền; chứng nhận di chúc; chứng nhận bản sao giấy tờ, tài liệu tiếng Việt.

Tuy nhiên, tình hình phát triển kinh tế, xã hội của nước ta sau 5 năm đã có những biến đổi lớn, những quy định của pháp luật nói chung và pháp luật về công chứng nói riêng phải được hoàn thiện một bước cho phù hợp. Nhất là sau khi Luật đất đai năm 1993 và Bộ luật dân sự năm 1995 có hiệu lực thi hành. Ngày 18/5/1996 Chính phủ đã ban hành Nghị định 31/CP về tổ chức và hoạt động công chứng thay thế cho Nghị đinh 45/HĐBT ngày 27/02/1991. Nghị định này đã cụ thể hoá một phần các quy định của BLDS, đổi mới một bước và tạo cơ sở pháp lý cho việc tiếp tục phát triển hoạt động công chứng ở nước ta. Nghị định số 31/CP ngày 18/5/1996 cũng định nghĩa về công chứng như Nghị định 45/HĐBT và quy định UBND quận, huyện, thị xã thuộc tỉnh có thẩm quyền chứng thực một số việc và chứng thực bản sao giấy tờ từ bản chính. UBND xã chứng thực việc từ chối nhận di sản, chứng thực di chúc và các việc khác do pháp luật quy định. Cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cấp bản chính giấy tờ như giấy khai sinh, giấy chứng nhận kết hôn, văn bằng, chứng chỉ và các giấy tờ khác có quyền cấp bản sao các giấy tờ đó cho đương sự.

Sau hơn 4 năm triển khai thực hiện, nhiều quy định của Nghị định 31/CP đã tỏ ra bất cập, không còn phù hợp với thực tế. Do vậy, ngày 08/12/2000 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 75/2000/NĐ-CP thay thế cho Nghị định 31/CP. Đồng thời ban hành Chỉ thị số 01/2001/CT – TTG ngày 05/3/2001 của Thủ tướng Chính Phủ về triển khai thi hành nghị định 75/2000/NĐ - CP.

Quy định của Nghị định 75/2000/NĐ-CP bước đầu có sự tách bạch giữa công chứng và chứng thực, tức là đã có sự phân biệt giữa hoạt động của cơ quan chuyên trách thực hiện công chứng là phòng công chứng và cơ quan kiêm nhiệm thực hiện nhiệm vụ này là UBND cấp huyện, cấp xã.

Xem tất cả 123 trang.

Ngày đăng: 17/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí