Đáp Ứng Yêu Cầu Cải Cách Hành Chính Và Cải Cách Tư Pháp

hiến định trong hệ thống pháp luật nước ta - Đảng Cộng sản Việt Nam. Do đó, pháp luật trong Nhà nước pháp quyền XHCN phải là sự thể chế hoá các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng. Thực tế cho thấy những thành tựu của quá trình xây dựng hệ thống pháp luật Việt Nam trong hơn 20 năm qua gắn chặt với quá trình hoàn thiện các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng. Chính những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, chẳng hạn về phát triển kinh tế, xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh, đã làm cơ sở cho sự hình thành những quan điểm và định hướng chiến lược cho sự phát triển của hệ thống pháp luật của đất nước. Văn kiện tập trung nhiều quan điểm và giải pháp chiến lược cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật chính là Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 2 tháng 6 năm 2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện pháp luật đến năm 2010, tầm nhìn 2020.

Trong Nhà nước kiểu mới XHCN, và đặc biệt trong điều kiện thực hiện chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền của Đảng thì việc phát huy vai trò của pháp luật trong quản lý nhà nước nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý là hết sức quan trọng, cấp bách. Trên lĩnh vực chứng thực, nhất là trong thời kỳ đổi mới, với chủ trương quản lý đất nước bằng pháp luật chứ không chỉ bằng đạo lý, các quy định của pháp luật về chứng thực đã có sự phát triển, hoàn thiện là cơ sở cho hoạt động chứng thực được phát triển.

Mặc dù vậy, cũng như nhiều bộ phận pháp luật khác, các quy định pháp luật về chứng thực còn khá nhiều hạn chế, bất cập, đòi hỏi phải được khẩn trương khắc phục vậy nên cần phải tăng cường hoạt động quản lý nhà nước đối với hoạt động chứng thực

3.2.4 Đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính và cải cách tư pháp

Xây dựng một nền hành chính nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại hóa. Điều chỉnh chức năng và cải tiến phương thức hoạt động của Chính phủ theo hướng thống nhất quản lý vĩ mô việc thực hiện cá nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong cả nước bằng hệ thống pháp luật, chính sách hoàn chỉnh và đồng bộ. Định rõ chức năng nhiệm vụ của các cấp các ngành theo hướng bộ quản lý đa ngành đa lĩnh vực trên phạm vi toàn quốc, cung cấp dịch vụ công.

Dựa trên những thành tựu đã đạt được trong Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 – 2010, Chính phủ đã Chương trình cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020, trên cơ sở phát huy những thành tựu đã đạt được qua việc thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính giai đoạn 2001-2010. Trong đó coi cải cách hành chính là một nhiệm vụ trọng tâm, một khâu đột phá trong việc xây dựng một nền hành chính hiện đại, hiệu lực, hiệu quả, phục vụ nhân dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển đất nước trong giai đoạn chiến lược mới.

Công cuộc cải cách tư pháp trong những năm gần đây được Đảng, Nhà nước ta hết sức quan tâm và được đặt trong mối quan hệ với việc đẩy mạnh cải cách hành chính và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước, hướng tới xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tiếp tục phát huy những kết quả đã đạt được của việc tổ chức thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, ngày 02/6/2005, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 49- NQ/TW về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 với mục tiêu xuyên suốt là xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa... Nhằm tạo sự chuyển biến mang tính đột phá trong cuộc đấu tranh bảo vệ công lý, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế.

Cải cách tổ chức và hoạt động tư pháp, bảo đảm mọi vi phạm đều bị xử lý, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật. Củng cố, kiện toàn bộ máy cơ quan tư pháp, đổi mới tổ chức và hoạt động cơ quan có thẩm quyền thực hiện hoạt động chứng thực.

Vì thế, tăng cường quản lý nhà nước về chứng thực vừa là yêu cầu của cải cách hành chính, cải cách tư pháp, vừa là một nội dung của cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vỡ dân. Có thể xem mối quan hệ giữa tăng cường quản lý nhà nước về chứng thực với cải cách hành

chính, cải cách tư pháp là mối quan hệ giữa bộ phận và toàn bộ, có sự tác động qua lại lẫn nhau, đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất, toàn diện, tránh được sự mâu thuẫn trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo; khắc phục tình trạng thiếu đồng bộ, chắp vá, bị động, nặng về giải pháp tình thế trong quá trình thực hiện cải cách.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 123 trang tài liệu này.

Mặt khác, chỉ khi được đặt trong nội dung tổng thể cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vỡ dân, vấn đề xã hội hóa công chứng mới được xem trọng đúng mức, góp phần thúc đẩy cải cách hành chính, cải cách tư pháp theo kịp yêu cầu đổi mới nói chung, đặc biệt là đổi mới kinh tế; đáp ứng yêu cầu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, phát huy dân chủ, củng cố lòng tin của người dân vào Nhà nước, vào hệ thống chính trị và đường lối đổi mới của Đảng, Nhà nước ta.

Tại Hà Nội, theo sự chỉ đạo đã xây dựng Chương trình số 08-CTr/TU ngày 18/10/2011 của Thành ủy về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao trách nhiệm và chất lượng phục vụ của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn 2011- 2015, theo đó công tác cải cách hành chính của Thành phố đã được thực hiện toàn diện cả 6 nội dung và đã có nhiều chuyển biến tích cực, các nội dung, đề án giao cho các cơ quan, đơn vị về cơ bản đã hoàn thành theo kế hoạch, góp phần tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đô. Đồng thời năm 2013 Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội đã ban hành Chỉ thị 01/CT-UBND về “Năm kỷ cương hành chính” theo đó ban chỉ đạo chương trình đã tổ chức quán triệt tới các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận tổ quốc và tổ chức chính trị - xã hội nhằm nâng cao nhận thức về cải cách hành chính, kịp thời tổ chức triển khai nhằm tạo bước chuyển mạnh mẽ về kỷ cương, kỷ luật hành chính, nâng cao ý thức trách nhiệm phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, công chức, đảng viên.

Quản lý nhà nước về chứng thực - Qua thực tiễn Thành phố Hà Nội - 12

Tăng cường quản lý nhà nước về chứng thực phải gắn liền với việc hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, tiếp tục mở rộng dân chủ, thể chế hóa các quyền tự do dân chủ; quy định đơn giản các thủ tục và công khai hóa các thủ tục để bảo đảm thực hiện các quyền công dân; xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp thành bộ máy phục vụ nhân dân phù hợp với việc quản lý nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

3.2.5 Đáp ứng yêu cầu của hội nhập nền kinh tế quốc tế

Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị (5/1998) đã tạo ra bước ngoặt trong đường lối chính sách đối ngoại của Việt Nam. Các Đại hội tiếp theo từ Đại hội VII(1991), Đại hội VIII (1996), Đại hội IX (2001) đến Đại hội X (2006) đã quyết định đường lối đối ngoại của Việt Nam là độc lập tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá và đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực.

Đại hội XI năm 2011 đã phát triển và bổ sung nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế.[33, tr.8]

Cho đến nay Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 180 nước, trong đó có tất cả các nước lớn, có quan hệ kinh tế với hơn 220 thị trường nước ngoài và là thành viên của nhiều tổ chúc và diễn đàn quốc tế. Khi thực hiện hội nhập thì cách thức và phương thức quản lý nhà nước sẽ phải thay đổi để phù hợp với tình hình thực tế. Bởi không chỉ có điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước, đặc điểm tâm lý, truyền thống dân tộc, mà cả xu thế hội nhập quốc tế và khu vực cũng đang tác động mạnh mẽ đến vấn đề quản lý nhà nước nói chung và quản lý nhà nước về chứng thực nói riêng.

Thể chế quan điểm về hội nhập của Đảng, Nhà nước, trong Quyết định số 172/QĐ-BTP ngày 20 tháng 01 năm 2012 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về ban hành chương trình công tác của ngành tư pháp năm 2012:

Xây dựng định hướng hợp tác quốc tế về pháp luật và tư pháp phục vụ quá trình hội nhập quốc tế của đất nước. Nâng cao năng lực, đảm bảo các điều kiện pháp lý để chủ động tham gia đàm phán các điều ước, thỏa thuận quốc tế và giải quyết tranh chấp dân sự, thương mại quốc tế.[10, tr.3]

Như vậy, tăng cường quản lý nhà nước nói chung và tăng cường quản lý nhà nước về chứng thực nói riêng phải tính đến những tác động và yêu cầu thực tiễn của quá trình hội nhập, phải phản ánh được quá trình tăng cường các quan hệ qua lại và phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia trong xu thế hội nhập, tạo khả năng phục vụ tích cực, hiệu quả các giao lưu trong nước và quốc tế. Yêu cầu này đòi hỏi trong quá trình xã hội hóa, phải nghiên cứu, học tập, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm tổ chức và hoạt động chứng thực trên thế giới, đặc biệt là kinh nghiệm xã hội hóa ở các nước có nền kinh tế chuyển đổi.

3.3. Giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về chứng thực tại Việt Nam hiện nay

3.3.1 Giải pháp chung

3.3.1.1 Xây dựng Luật chứng thực và các văn bản hướng dẫn thi hành

Chúng ta có thể nhận thấy rằng trong khi hệ thống pháp luật Việt Nam đang ở tâm điểm của cuộc chuyển mình mạnh mẽ nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước bằng pháp luật thì hoạt động xây dựng pháp luật đối với một lĩnh vực quản lý Nhà nước rộng lớn và quan trọng như chứng thực trong suốt 60 năm qua vẫn chưa vượt ra khỏi khuôn khổ của việc ban hành văn bản dưới luật. Bởi thực tế hiện nay có rất nhiều loại việc chứng thực khác nhau do chính quyền các cấp cũng như các cơ quan, tổ chức trong và ngoài nước thực hiện nhưng việc chứng thực những loại việc này phải tuân thủ theo trình tự, thủ tục như thế nào, giá trị pháp lý của những hành vi chứng thực này ra sao thì chưa được khẳng định. Đặc biệt, nhiều văn bản chứng thực được thừa nhận theo yêu cầu tự phát mà không có sơ pháp lý rõ ràng, chưa được điều chỉnh bằng pháp luật của Nhà nước. Chính vì vậy xuất hiện tình trạng mỗi cơ quan thực chứng thực một cách khác nhau đối với cùng một loại việc. Do đó, việc "luật hóa” các quy định về chứng thực là hết sức cần thiết để tạo cơ sở pháp lý cao cho việc giải quyết những vướng mắc trên

Như vậy đã đến lúc phải xây dựng Luật Chứng thực để đáp ứng cải cách hành chính hội nhập quốc tế và phục vụ người dân được tốt hơn. Khi thực hiện xây dựng Luật Chứng thực chúng ta có thể thực hiện theo 02 phương án:

Phương án 01: Ngoài các hành vi chứng thực theo pháp luật hiện hành thì cần đưa một số việc mà cơ quan nhà nước vẫn thực hiện xác nhận theo yêu cầu của người dân như xác nhận hồ sơ vay vốn, sơ yếu lý lịch, lời khai sự kiện, kê khai thu nhập, có mặt tại nơi cư trú... vào đối tượng điều chỉnh của Luật Chứng thực; nghiên cứu mối quan hệ giữa pháp luật về chứng thực và pháp luật chứng thực chữ ký số, chứng thực lưu trữ.

Phương án 02: Quy định cụ thể những hành vi được coi là chứng thực, những trường hợp nào cần chứng thực, những hành vi không được Luật quy định thì không được gọi là chứng thực và trình tự, thủ tục của từng loại việc.

Ngoài ra, Luật cũng sẽ quy định về mô hình quản lý và thẩm quyền thực hiện chứng thực, về người thực hiện chứng thực ở UBND cấp xã, về các trường hợp chứng thực không hợp lệ, trình tự, thủ tục thực hiện chứng thực.

Khi xây dựng Luật Chứng thực cần tính tới đặc thù công tác của các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài. Cần tránh cả hai thái cực là quy định rập khuôn công tác chứng thực ở nước ngoài với ở trong nước hoặc hoàn toàn bỏ lửng công tác này.

Khi thực hiện xây dựng và ban hành Luật Chứng thực phải đảm bảo những yêu cầu sau:

- Tiếp tục thể chế hóa các chủ trương, đường lối, quan điểm đã được xác định trong các Nghị quyết, văn kiện của Đảng về ngành Tư pháp nói chung và hoạt động chứng thực nói riêng, đặc biệt là Nghị quyết số 48-NQ/TW, Nghị quyết số 49- NQ/TW ngày 02/6/2005, tạo điều kiện cho hoạt động chứng thực tiếp tục phát triển theo hướng chuyên nghiệp hóa, phát triển thành một dịch vụ hành chính công tiêu biểu; tập trung sửa đổi, bổ sung những vấn đề mang tính cấp bách, cần thiết nhất để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc lớn về thể chế, tạo cơ sở pháp lý đồng bộ, thống nhất hoạt động chứng thực.

Nâng cao vị trí, vai trò của hoạt động chứng thực trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Nâng cao giá trị pháp lý của văn bản chứng thực, bảo đảm văn bản chứng thực có hiệu lực thi hành trong thực tiễn, giảm thiểu “gánh nặng” cho cơ quan nhà nước.

Tập trung nâng cao về chất lượng, tính chuyên nghiệp của đội ngũ cán bộ, công chức thực hiện hoạt động chứng thực. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức tinh thông nghiệp vụ, có đạo đức trong khi thực thi công vụ.

Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về chứng thực. Cơ quan quản lý nhà nước ở Trung ương tập trung thực hiện vai trò quản lý ở tầm vĩ mô, chính sách lớn, đồng thời có các quy định phân cấp hợp lý cho địa phương để bảo đảm sự điều hành thống nhất trong toàn quốc.

Đồng thời với việc xây dựng và ban hành Luật Chứng thực là việc xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thực hiện Luật chứng thực để đảm bảo hoạt động chứng thực được duy trì ổn định.

3.3.1.2 Đổi mới quan niệm về chứng thực

Hiện nay ở Việt Nam, mặc dù đã có sự phân biệt rạch ròi về mặt pháp lý thuật ngữ “ chứng thực” và “công chứng” được điều chỉnh ở 02 văn bản quy phạm pháp luật khác nhau là Luật công chứng 2006 và Nghị định số 79/ NĐ – CP. Tuy nhiên về mặt nhận thức ngay trong các những cá nhân có trình độ hoặc cán bộ, công chức vẫn quan niệm chưa đầy đủ hai khái niệm trên.

Nếu quan niệm "công chứng, chứng nhận giấy tờ" thì không chính xác, bởi vì, chứng nhận giấy tờ hoặc chứng thực bản sao giấy, chứng thực chữ ký chỉ là công việc đơn thuần do cơ quan hành chính các cấp và các cơ quan nhà nước từ trước tới nay vẫn thực hiện, có thể coi đây là việc thị thực hành chính, không phải công việc thuộc phạm vi công chứng như một số quốc gia trên thế giới quan niệm văn bản, giấy tờ do các cơ quan nhà nước lập ra được ký tên, đóng dấu và đã có giá trị thực hiện thì không có gì để chứng nhận, chứng nhận của công chứng viên sẽ trở nên vô nghĩa khi mà văn bản không do mình lập ra, không được chứng kiến việc thỏa thuận hoặc ký tên của những người có tên trong văn bản. Rõ ràng từ những quan niệm đơn giản về công chứng, đồng nhất khái niệm công chứng với việc chứng thực của UBND các cấp có thẩm quyền đã dẫn đến việc xác định giá trị của văn bản công chứng, các việc công chứng không rõ ràng và không đầy đủ, do đó trong thực tế đã hạn chế tác dụng và hiệu quả của công chứng, lúng túng cho công chứng viên và những người có thẩm quyền thực hiện công chứng, chứng thực, gây

không ít phiền hà cho nhân dân. Bởi vậy, vấn đó cần phải thay đổi nhận thức về chứng thực là vấn đề quan trọng hàng đầu trong tăng cường quản lý nhà nước về chứng thực ở nước ta hiện nay.

Về mặt nhận thức phải phân biệt rạch ròi không nên đồng nhất việc công chứng và chứng thực. Bởi lẽ, công chứng ở đây được hiểu là một tổ chức, chứng thực là thuật ngữ chỉ hành vi diễn ra trong thực tế, chứng thực không phải là một tổ chức và càng không được hiểu là một tổ chức, chứng thực chỉ là một công việc của bất kỳ cơ quan tổ chức, cá nhân nào có thẩm quyền thực hiện. Không nên đồng nhất giá trị pháp lý của văn bản công chứng và văn bản của chứng thực của UBND cấp huyện, cấp xã. Không nên quyền lực hóa văn bản chỉ mang giá trị bảo đảm tính xác thực. Mặt khác, cơ quan UBND không thể cùng một lúc vừa tham gia làm chứng lại vừa tham gia quyết định các vấn đề liên quan đến việc làm chứng. Hoạt động công chứng là hoạt động có tính chất công, song không thể quy định lẫn lộn giữa hoạt động hỗ trợ tư pháp với hoạt động hành chính của cơ quan nhà nước các cấp.

3.3.1.3 Tăng cường hiệu quả Chương trình tổng thể cải cách hành chính và cải cách tư pháp

Cải cách tư pháp, cải cách hành chính là một bộ phận quan trọng của cải cách chính trị và cải cách tổ chức, hoạt động của Nhà nước, có sự tác động, tương hỗ lẫn nhau. Nhằm bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, góp phần giữ vững sự ổn định chính trị; tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước; thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển lành mạnh. Những năm qua Chính phủ đã xây dựng Chương trình tổng thể cách cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 – 2010, giai đoạn 2011 – 2020 và các chương trình cải cách tư pháp trong đó có hoạt động chứng thực. chương trình trọng tâm công tác cải cách tư pháp giai đoạn 2011 - 2016. Công tác cải cách tư pháp giai đoạn 2011 - 2016 được xác định cần quán triệt, thực hiện đúng đắn các chủ trương, đường lối nêu trong các văn kiện Đại hội lần XI của Đảng; định hướng của Ban chấp hành TW và các mục tiêu, quan điểm, phương hướng, nhiệm vụ nêu trong Nghị quyết số 49/NQ/TW Bộ Chính trị

Trước mắt, tập trung nghiên cứu thể chế hoá các chủ trương cải cách tư pháp

Xem tất cả 123 trang.

Ngày đăng: 17/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí