Hoạt Động Nghiên Cứu Khoa Học Của Học Sinh Trung Học Cơ Sở‌

học Kỹ thuật công nghiệp, Đại học Thái Nguyên (Nguyễn Thị Kim Chung, 2013); Quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên trường Đại học Công nghệ Thông tin và Truyền thông (Trần Ngọc Anh, 2014); Quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên khoa Ngoại ngữ, Đại học Thái Nguyên (Lê Thị Bích Ngọc, 2018); Quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên trường đại học Hùng Vương (Nguyễn Thị Mai Lan, 2018). Các công trình nghiên cứu này đã đề cập đến những vấn đề cơ bản về quản lý, về hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên ở các trường đại học, về thực trạng nghiên cứu khoa học và thực trạng các biện pháp quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên ở các trường đại học. Bên cạnh đó, chủ đề về nghiên cứu khoa học ở trường phổ thông cũng đã được quan tâm thực hiện. Chẳng hạn như “Quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của giáo viên trường THCS huyện Đầm Hà, Quảng Ninh” (Triệu Phong, 2014); Quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học kĩ thuật của học sinh ở các trường THCS thành phố Thái Nguyên (Đặng Quang Hoàng, 2018). Các nghiên cứu trên đã tập trung làm rõ thực trạng về quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của giáo viên, học sinh cũng như đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý công tác này trong các nhà trường.

Như vậy, có thể thấy nghiên cứu khoa học là một vấn đề được nhiều tác giả trong nước và quốc tế quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên, những nghiên cứu mang tính chuyên sâu về hoạt động nghiên cứu khoa học và quản lý hoạt động này đối với lứa tuổi học sinh, đặc biệt là học sinh THCS còn khá ít. Do đó, mảng đề tài về quản lý các hoạt động nghiên cứu khoa học của học sinh trong nhà trường phổ thông là rất cần thiết, cần được quan tâm nghiên cứu để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục nói chung, phát triển năng lực cho người học nói riêng trong bối cảnh đổi mới giáo dục.

1.2. Một số khái niệm cơ bản‌

1.2.1. Quản lý giáo dục‌

Giáo dục là một hiện tượng xã hội, một chức năng của xã hội loài người được thực hiện một cách tự giác, cũng giống như mọi hoạt động khác của xã hội loài người, giáo dục cũng cần phải quản lý, dưới góc độ coi giáo dục là một hoạt động chuyên biệt thì quản lý giáo dục là quản lý các hoạt động của một cơ sở giáo dục như trường học, các đơn vị phục vụ đào tạo. Dưới góc độ xã hội, quản lý giáo dục là quản

lý mọi hoạt động giáo dục trong xã hội. Đã có nhiều tác giả nghiên cứu về lý thuyết quản lý giáo dục và thực tế cho thấy cũng có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này, có thể kể đến một số quan điểm chủ yếu sau:

Theo C.Mác: “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên quy mô tư ng đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến một sự chỉ đạo. Một người độc tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng ” [7].

Tác giả M.I.Kônđacốp, một chuyên gia giáo dục khác của Liên xô cũ cho rằng: quản lý giáo dục là tác động có hệ thống, có kế hoạch, có ý thức và hướng đích của chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau đến tất cả các mắt xích của hệ thống (từ bộ đến trường) nhằm mục đích đảm bảo việc hình thành nhân cách cho thế hệ trẻ trên c sở nhận thức và vận dụng những quy tắc chung của xã hội cũng như những quy luật của quá trình giáo dục, của sự phát triển tâm thế và tâm lý trẻ em [10].

Ở Việt Nam, quản lý giáo dục cũng là một lĩnh vực được Đảng và nhà nước đặc biệt quan tâm. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII khẳng định: “Quản lý giáo dục là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý tới khách thể quản lý nhằm đưa hoạt động sư phạm của hệ thống giáo dục đạt tới kết quả mong muốn bằng cách hiệu quả nhất” [8].

Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang, khái niệm quản lý giáo dục là khái niệm đa cấp (bao hàm cả quản lý hệ giáo dục quốc gia, quản lý các phân hệ của nó, đặc biệt là quản lý trường học): “Quản lý giáo dục là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm làm cho hệ vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện được các tính chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa iệt Nam, mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học – giáo dục thế hệ trẻ, đưa giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất”[23].

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 135 trang tài liệu này.

Tác giả Phạm Minh Hạc cũng khẳng định:“Quản lý giáo dục là tổ chức các hoạt động dạy học. Có tổ chức được các hoạt động dạy học, thực hiện được các tính chất của nhà trường phổ thông iệt Nam xã hội chủ nghĩa, mới quản lý được giáo dục, tức là cụ thể hoa đường lối giáo dục của Đảng và biến đường lối đó thành hiện thực, đáp ứng nhu cầu của nhân dân, của đất nước” [12].

Nhà trường là đối tượng cuối cùng và cơ bản nhất của quản lý giáo dục, trong đó đội ngũ giáo viên và học sinh là đối tượng quản lý quan trọng nhất.

Quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của học sinh ở các trường trung học cơ sở thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh - 3

Như vậy, có nhiều định nghĩa khác nhau về quản lý giáo dục, mỗi một quan niệm đều làm rõ được những nội hàm cơ bản của khái niệm. Dựa trên những phân tích trên, theo chúng tôi: Quản lý giáo dục là hệ thống tác động có tổ chức, có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý để đạt được mục tiêu quản lý mong muốn trong lĩnh vực giáo dục.

1.2.2. Hoạt động nghiên cứu khoa học‌

Nghiên cứu khoa học là quá trình nhận thức khoa học, là hoạt động trí tuệ đặc thù bằng những phương pháp nghiên cứu nhất định để tìm ra một cách chính xác và có mục đích những điều mà con người chưa biết đến hoặc biết chưa đầy đủ, tức là tạo ra sản phẩm mới dưới dạng tri thức mới về nhận thức hoặc phương pháp.

Nghiên cứu khoa học cụ thể là cách con người tìm hiểu các hiện tượng khoa học một cách có hệ thống. Trong thế giới này, để hiểu biết một sự việc chúng ta có 2 cách đó là chấp nhận và nghiên cứu. Chấp nhận là cách thức con người hiểu biết sự việc thông qua việc thừa nhận nghiên cứu hay kinh nghiệm của người khác. Trong khi đó, nghiên cứu là cách thức con người tìm hiểu sự việc thông qua việc thực hiện các nghiên cứu hay kinh nghiệm của chính mình.

Tác giả Vũ Cao Đàm cho rằng nghiên cứu khoa học nói chung nhằm thỏa mãn nhu cầu nhận thức và cải tạo thế giới đó là:

- Khám phá những thuộc tính bản chất của sự vật hiện tượng.

- Phát hiện quy luật sự vận động của sự vật hiện tượng.

- Vận dụng quy luật để sáng tạo giải pháp tác động lên sự vật và hiện tượng.

- Là sự phát hiện bản chất sự vật, phát triển nhận thức khoa học về thế giới; hoặc sáng tạo phương pháp mới và phương tiện kỹ thuật mới để làm biến đổi sự vật phục vụ cho mục tiêu hoạt động của con người.

Hoạt động nghiên cứu khoa học là một quá trình nghiên cứu, một hoạt động tìm kiếm xem xét, điều tra, hoặc thử nghiệm dựa trên những số liệu, tài liệu, kiến thức... đạt được từ các thí nghiệm nghiên cứu khoa học để phát hiện ra những cái mới về bản chất sự vật, về thế giới tự nhiên và xã hội, để sáng tạo phư ng pháp, phư ng tiện kĩ thuật mới cao h n, giá trị h n.

Nghiên cứu khoa học có những yêu cầu riêng và phải tuân theo quy trình nhiều bước thực hiện để đi đến kết quả cuối cùng. Mỗi công trình nghiên cứu khoa học đều xuất phát từ yêu cầu cuộc sống, từ những giả định ban đầu. Muốn giải quyết vấn đề đó, người nghiên cứu phải đi từng bước một, từ cách tiếp cận vấn đề (Đặt vấn đề, mục đích và mục tiêu nghiên cứu, đối tượng, phạm vi nghiên cứu...) cho đến phương thức thực hiện, kiểm chứng giả định ban đầu và cuối cùng là báo cáo kết quả thực hiện công trình nghiên cứu.

1.2.3. Hoạt động nghiên cứu khoa học của học sinh trung học cơ sở‌

Hoạt động nghiên cứu khoa học của học sinh trung học c sở là những hoạt động tìm tòi, xem xét, điều tra, phát hiện những cái mới, tiến hành thử nghiệm hoặc vận dụng kiến thức đã học vào giải quyết những vấn đề thực tiễn cuộc sống dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Thông qua các hoạt động này, học sinh có được nhiều lợi ích, cụ thể như: Học sinh có cơ hội để giới thiệu kết quả nghiên cứu khoa học; tăng cường trao đổi, giao lưu văn hóa, giáo dục giữa các địa phương và hội nhập quốc tế. Mặt khác, thông qua hoạt động nghiên cứu khoa học góp phần thúc đẩy đổi mới hình thức tổ chức và phương pháp dạy học, đổi mới hình thức và phương pháp đánh giá kết quả học tập, phát triển năng lực học sinh, nâng cao chất lượng dạy học trong nhà trường.

Hoạt động nghiên cứu khoa học của học sinh có một số đặc điểm riêng như sau: Phải phục vụ mục đích học tập, nhận thức khoa học là động cơ chủ yếu của hoạt động nghiên cứu khoa học, hoạt động nghiên cứu khoa học phải đặt dưới sự hướng dẫn của giáo viên.

1.2.4. Quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của học sinh ở trường trung học cơ sở

Từ khái niệm quản lý và hoạt động nghiên cứu khoa học của học sinh trung học cơ sở, theo chúng tôi:

Quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của học sinh ở trường trung học c sở là quá trình Hiệu trưởng nhà trường tác động có mục đích, có kế hoạch đến các thành tố của hoạt động nghiên cứu khoa học của học sinh, thúc đẩy việc tìm tòi, xem xét, điều tra, phát hiện những cái mới, tiến hành thử nghiệm hoặc vận dụng kiến thức đã học vào giải quyết những vấn đề thực tiễn cuộc sống.

1.3. Một số vấn đề lý luận về hoạt động nghiên cứu khoa học của học sinh ở trường trung học cơ sở‌

1.3.1. Một số đặc điểm tâm sinh lý cơ bản của học sinh trung học cơ sở‌

* ề mặt sinh lý:

Sự phát triển cơ thể có bước nhảy vọt và mất cân đối: hệ xương phát triển nhanh hơn hệ cơ, dung lượng tim tăng lên, bộ máy sinh dục đang trưởng thành, hoạt động thần kinh cấp cao có những đặc điểm riêng biệt,... Tất cả những biến đổi đó gây cho thiếu niên sự tò mò, quan tâm, ý thức về bản thân, cảm giác mình đang trở thành người lớn. Sự thay đổi về thể chất của lứa tuổi học sinh THCS đã làm cho các em có những đặc điểm nhân cách khác với các em ở lứa tuổi trước. Lứa tuổi này là lứa tuổi có nghị lực dồi dào, có tính tích cực cao, có nhiều dự định lớn lao. Chính đặc điểm này của lứa tuổi ảnh hưởng nhiều đến nhu cầu, động cơ hoạt động nghiên cứu khoa học, kích thích sự tìm tòi, ham hiểu biết của các em trong lựa chọn các vấn đề nghiên cứu.

* ề tâm lý:

- Đặc điểm nhận thức: Vào lứa tuổi này, tư duy trừu tượng của các em đã phát triển, các em thích học hỏi, tìm tòi, khám phá những điều mới lạ, đặc biệt là rất thích được thử nghiệm. Do vậy, động cơ học tập của học sinh THCS rất phong phú đa dạng, nhưng chưa bền vững, nhiều khi còn thể hiện sự mâu thuẩn của nó.

Thái độ đối với học tập của học sinh THCS cũng rất khác nhau. Tất cả các em đều ý thức được tầm quan trọng và sự cần thiết của học tập, nhưng thái độ sự biểu hiện rất khác nhau, được thể hiện như sau từ thái độ rất tích cực, có trách nhiệm, đến thái độ lười biếng, thơ ơ thiếu trách nhiệm trong học tập.

Trong sự hiểu biết chung: từ mức độ phát triển cao và sự ham hiểu biết nhiều lĩnh vực tri thức khác nhau ở một số em, nhưng ở một số em khác thì mức độ phát triển rất yếu, tầm hiểu biết rất hạn chế. Trong phương thức lĩnh hội tài liệu học tập: từ chỗ có kỹ năng học tập độc lập, có nhiều cách học đến mức hoàn toàn chưa có kỹ năng học tập độc lập, chỉ biết học thuộc lòng từng bài, từng câu, từng chữ. Trong hứng thú học tập: từ hứng thú biểu hiện rõ rệt đối với một lĩnh vực tri thức nào đó và

có những việc làm có nội dung cho đến mức độ hoàn toàn không có hứng thú nhận thức, cho việc học hoàn toàn gò ép, bắt buộc.

Ở lứa tuổi này học sinh THCS có khả năng phân tích, tổng hợp phức tạp hơn khi tri giác các sự vật, hiện tượng. Khối lượng tri giác tăng lên, tri giác trở nên có kế hoạch, có trình tự và hoàn thiện hơn. Trí nhớ dần dần mang tính chất của những quá trình được điều khiển, điều chỉnh và có tổ chức. Học sinh THCS có nhiều tiến bộ trong việc ghi nhớ tài liệu trừu tượng, từ ngữ, các em bắt đầu biết sử dụng những phương pháp đặc biệt để ghi nhớ và nhớ lại. Khi ghi nhớ các em đã biết tiến hành các thao tác như so sánh, hệ thống hoá, phân loại. Tốc độ ghi nhớ và khối lượng tài liệu được ghi nhớ tăng lên. Ghi nhớ máy móc ngày càng nhường chỗ cho ghi nhớ logic, ghi nhớ ý nghĩa. Hiệu quả của trí nhớ trở nên tốt hơn, các em không muốn thuộc lòng mà muốn tái hiện bằng lời nói của mình.

Với những đặc điểm nhận thức như vậy, không chỉ trong học tập mà với hoạt động nghiên cứu khoa học cũng bộc lộ rất rõ những đặc điểm này. Những đặc điểm trong tư duy, tưởng tượng, trí nhớ sẽ góp phần thực hiện hoạt động nghiên cứu khoa học hiệu quả hơn, có những phát hiện mới và lập luận lô gic, sáng tạo hơn so với các lứa tuổi khác.

- Sự hình thành tự ý thức của học sinh THCS

Học sinh THCS bắt đầu xuất hiện sự quan tâm đến bản thân, đến những phẩm chất nhân cách của mình, các em có biểu hiện nhu cầu tự đánh giá, nhu cầu so sánh mình với người khác. Các em bắt đầu xem xét mình, vạch cho mình một nhân cách tương lai, muốn hiểu biết mặt mạnh, mặt yếu trong nhân cách của mình.

Sự bắt đầu hình thành và phát triển tự ý thức đã gây nhiều ấn tượng sâu sắc đến toàn bộ đời sống tâm lý của lứa tuổi này, đến hoạt động học tập, đến sự hình thành quan hệ qua lại với mọi người.

Sự tự ý thức của lứa tuổi này được bắt đầu từ sự nhận thức hành vi của mình, từ những hành vi riêng lẻ, đến toàn bộ hành vi và cuối cùng là nhận thức về những phẩm chất đạo đức, tính cách và khả năng của mình.

Đặc điểm quan trọng về tự ý thức của lứa tuổi này là mâu thuẩn giữa nhu cầu tìm hiểu bản thân với kỹ năng chưa đầy đủ để phân tích đúng đắn sự biểu lộ của nhân cách.

Đặc điểm tâm lý này cũng góp phần vào việc đánh giá, lựa chọn những vấn đề nghiên cứu phù hợp với lứa tuổi của các em. Mặt khác, giáo viên cũng như người lớn cần định hướng đúng động cơ thực hiện các hoạt động nghiên cứu cho học sinh, giúp các em hình thành thái độ phù hợp. Giáo viên và nhà trường cũng cần đánh giá đúng hiệu quả của các sản phẩm, công trình nghiên cứu của học sinh để tạo niềm tin, động lực, ý chí phấn đấu cho các em thực hiện những nghiên cứu cao hơn, tốt hơn.

1.3.2. Mục đích, ý nghĩa của hoạt động nghiên cứu khoa học đối với sự phát triển nhân cách học sinh trung học cơ sở‌

Cùng với sự chú trọng phát triển phẩm chất và năng lực cho học sinh trong các hoạt động học tập và giáo dục, hoạt động nghiên cứu khoa học của học sinh cũng được các nhà trường quan tâm phát triển. Đây thực sự là sân chơi bổ ích giúp các em áp dụng những kiến thức đã học vào cuộc sống, học đi đôi với hành; tiếp cận, làm quen với phương pháp, kỹ năng nghiên cứu khoa học, tạo đà cho các bậc học tiếp theo; tạo sự tự tin, tìm tòi và sáng tạo; rèn luyện cách làm việc tự lực, làm việc nhóm, tính tích cực, chủ động, hứng thú trong học tập và sinh hoạt. Từ đó, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu cho học sinh ở một số môn học có liên quan, phát hiện các tài năng để bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.

Không những thế, nghiên cứu khoa học trong nhà trường là một trong những nội dung được đẩy mạnh, nhằm thực hiện mục tiêu đổi mới căn bản toàn diện nền giáo dục. Để phát huy những lợi ích trên, hoạt động nghiên cứu khao học phải được chú trọng ngay trong độ tuổi học sinh, có như vậy mới có cơ sở xây dựng và phát triển được đội ngũ nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của xã hội.

1.3.3. Đặc điểm hoạt động nghiên cứu khoa học của học sinh ở trường trung học cơ sở‌

Đặc điểm chung nhất của nghiên cứu khoa học là sự tìm tòi những sự vật, hiện tượng mà khoa học chưa hề biết đến. Đặc điểm này dẫn đến hàng loạt đặc điểm khác nhau của nghiên cứu khoa học, mà người nghiên cứu cần quan tâm khi xử lý những vấn đề cụ thể về mặt phương pháp luận nghiên cứu và tổ chức nghiên cứu.

Đặc điểm của hoạt động nghiên cứu khoa học của học sinh trung học cơ sở đó là: Ở lứa tuổi này, học sinh bắt đầu bước vào tuổi dậy thì, đang chuẩn bị bước vào cuộc sống tự lập, hoạt động học tập và hoạt động nghiên cứu khoa học ở tuổi này có tác dụng giúp các em trau dồi kiến thức và rèn luyện các kỹ năng sáng tạo, xây dựng ước mơ trở thành các nhà khoa học thực thụ, các nhà sáng chế trong tương lai. Cụ thể, hoạt động này giúp các em có năng lực vận dụng những kiến thức đã biết để ứng dụng trong tình huống mới, không theo chuẩn đã có; có năng lực nhận biết được vấn đề trong các tình huống tương tự; có khả năng độc lập nhận ra chức năng mới của đối tượng; có năng lực tìm kiếm và phân tích các yếu tố của đối tượng trong các mối tương quan của nó; có khả năng kết hợp được các phương pháp đã biết để đưa ra hướng giải quyết mới cho một vấn đề.

Những dấu hiệu của hoạt động nghiên cứu khoa học được xác định dựa trên hai hoạt động quan trọng sau đây của học sinh:

Học sinh sử dụng thiết bị đã được học hoặc thực hiện chúng với các tương tác khác (cấu trúc lại, kết hợp với các thiết bị khác); sử dụng các vật liệu trực quan như một yếu tố bài tập, hoặc thực hiện chúng với các tương tác khác (sử dụng các thao tác tư duy) để bước đầu tìm kiếm, phát hiện, sáng tạo nên những cấu trúc mới của đối tượng.

Bước đầu học sinh làm quen với việc nghiên cứu, hệ thống hóa các tài liệu lý luận, kết hợp với kiến thức đã được học để tìm kiếm biện pháp giải quyết các tình huống thuộc lĩnh vực khoa học xã hội và hành vi.

Như vậy, đối tượng của hoạt động nghiên cứu khoa học của học sinh trung học cơ sở là những tình huống, những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn có mối quan hệ gần gũi với kiến thức phổ thông mà các em đã được học.

Đặc điểm của hoạt động này còn được thể hiện ở những quy định chung của Bộ GD&ĐT đối với hoạt động sáng tạo khoa học của học sinh THCS. Với mục đích khuyến khích học sinh trung học nghiên cứu, sáng tạo khoa học, công nghê, kỹ thuật và vận dụng kiến thức đã học vào giải quyết những vấn đề thực tiễn cuộc sống; Góp phần thúc đẩy đổi mới hình thức tổ chức và phương pháp dạy học; đổi mới hình thức và phương pháp đánh giá kết quả học tập; phát triển năng lực học sinh; nâng cao chất

Ngày đăng: 27/02/2023