Quản Lý Cơ Sở Vật Chất Trường Ptdt Bán Trú Tiểu Học Theo Tiêu Chuẩn Trường Chuẩn Quốc Gia

e. Khu vệ sinh được bố trí hợp lý, riêng cho giáo viên, học sinh nam, học sinh nữ, không làm ô nhiễm môi trường ở trong và ngoài nhà trường;

g. Có khu để xe cho giáo viên, và học sinh trong khuôn viên nhà trường, đảm bảo trật tự, an toàn;

h. Có đủ nước sạch cho các hoạt động dạy học, nước sử dụng cho giáo viên, học sinh; có hệ thống thoát nước hợp vệ sinh;

i. Có hệ thống công nghệ thông tin kết nối internet đáp ứng yêu cầu quản lý và dạy học; có Website thông tin trên mạng internet hoạt động thường xuyên, hỗ trợ có hiệu quả cho công tác dạy học và quản lý nhà trường.

1.4. Quản lý cơ sở vật chất trường PTDT Bán trú tiểu học theo tiêu chuẩn trường chuẩn quốc gia

1.4.1. Các khái niệm cơ bản

1.4.1.1. Quản lý và quản lý nhà trường

* Quản lý

Đề cập đến vấn đề quản lý, K.Mark nói: “Một người độc tấu vĩ cầm tự điều khiển mình, còn dàn nhạc thì cần có nhạc trưởng” [dẫn theo 46].

Với sự quan tâm khác nhau đến các khía cạnh của hoạt động quản lý, các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều định nghĩa về quản lý. Có thể dẫn ra vài ví dụ:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 125 trang tài liệu này.

W.Taylor định nghĩa: “Quản lý là nghệ thuật biết rõ ràng, chính xác cái gì cần làm và làm cái đó như thế nào bằng phương pháp tốt nhất, rẻ nhất” [dẫn theo 9].

Nigel Bennett quan niệm: “Quản lý là một hoạt động duy lý liên quan tới việc tìm ra những cách hiệu quả, hiệu suất nhất có thể để sử dụng tài nguyên đạt được mục đích của tổ chức” [dẫn theo 9]).

Quản lý cơ sở vật chất ở các trường phổ thông dân tộc bán trú tiểu học huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên theo tiêu chuẩn trường chuẩn quốc gia - 4

Đặng Vũ Hoạt, Hà Thế Ngữ viết: “Quản lý là một quá trình định hướng, quá trình có mục tiêu, quản lý một hệ thống nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. Những mục tiêu này đặc trưng cho trạng thái mới của hệ thống mà người quản lý mong muốn [dẫn theo 30].

Đúc rút từ nhiều quan niệm của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước, có thể rút ra các dấu hiệu đặc trưng của hoạt động quản lý như sau:

- Là hoạt động được tiến hành trong một tổ chức hay một nhóm xã hội;

- Là tác động có hướng đích của chủ thể quản lý (bằng các chính sách, các nguyên tắc, các phương pháp và biện pháp; thông qua các quyết định quản lý);

- Là những tác động có hệ thống, có kế hoạch (phối hợp nỗ lực của các cá nhân, huy động các nguồn lực) để thực hiện mục tiêu của tổ chức.

Quản lý một tổ chức có thể được xem xét ở các phương diện khác nhau. Dưới góc độ chức năng, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng có bốn chức năng quản lý cơ bản: lập kế hoạch; tổ chức; chỉ đạo (lãnh đạo, điều phối) và kiểm tra. Ở góc độ khác, hoạt động quản lý được xem xét theo các nhóm nguồn lực chủ yếu nhằm đảm bảo cho tổ chức đạt được mục tiêu quản lý như: nguồn lực con người; nguồn lực tài chính; nguồn lực vật chất; nguồn lực thông tin. Tùy theo tính chất của từng loại hình tổ chức, quản lý còn được nghiên cứu ở dạng tổ hợp các phương pháp, biện pháp, chính sách tác động.

* Quản lý nhà trường

Nhiều nhà nghiên cứu thống nhất rằng, QLGD có nhiều cấp độ và có thể phân ra hai cấp độ chủ yếu: vĩ mô và vi mô. Ở cấp độ vĩ mô, QLGD là quản lý hệ thống giáo dục. Đó là sự tác động có mục đích, có kế hoạch, có ý thức của chủ thể quản lý (các cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục) lên toàn bộ các mắt xích của hệ thống giáo dục và các lực lượng xã hội nhằm huy động tối ưu các nguồn lực để đưa hệ thống giáo dục, sự nghiệp giáo dục đạt tới kết quả mong muốn. Ở cấp độ vi mô, QLGD được nhìn nhận ở góc độ quản lý các CSGD và thường được gọi là quản lý nhà trường. Quản lý nhà trường là hệ thống những tác động có định hướng, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến các lực lượng giáo dục trong, ngoài nhà trường nhằm huy động tối ưu các nguồn lực, để thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu giáo dục của nhà trường.

Sự khác nhau về mục tiêu giáo dục của các bậc học, cấp học đã tạo nên đặc thù riêng của hoạt động quản lý trong các nhà trường. Luật Giáo dục của nước ta (2005) đã chỉ rõ như vậy.

Để hoàn thành trọng trách được giao phó, các trường trong mỗi bậc học, cấp học phải triển khai hàng loạt lĩnh vực công tác: quản lý ĐT, quản lý hoạt động NCKH, quản lý đội ngũ cán bộ, quản lý HSSV, quản lý tài chính, quản lý CSVC, quản lý hoạt động hợp tác quốc tế,… Do vậy, trong các công trình nghiên cứu, quản lý trường TH có thể được xem xét như một khái niệm toàn diện, hoặc được mổ xẻ, phân tích sâu ở một lĩnh vực công tác cụ thể. Song, trong mọi trường hợp, suy cho cùng các đề xuất của nhà nghiên cứu đều nhằm hiện thực hóa mục tiêu giáo dục của trường tiểu học.

Tác giả Nguyễn Phúc Châu [9] phân tích hai cách tiếp cận cơ bản: Theo lý luận giáo dục (quá trình giáo dục) và theo lý thuyết hoạt động (mục đích và phương tiện). Với tiếp cận thứ nhất, quản lý nhà trường bao gồm quản lý các lĩnh vực: mục tiêu giáo dục, nội dung giáo dục, phương pháp giáo dục, phương tiện và điều kiện giáo dục, lực lượng giáo dục, hình thức tổ chức giáo dục, kết quả giáo dục, môi

trường để thực hiện được mục đích giáo dục. Cách tiếp cận thứ hai xem các phương tiện để thực hiện mục đích giáo dục của nhà trường bao gồm 5 nhóm cơ bản: chế định, bộ máy tổ chức và nhân lực, nguồn tài lực và vật lực, môi trường, thông tin và truyền thông giáo dục.

Dưới góc độ chất lượng, tác giả Nguyễn Đức Chính [12] quan niệm quản lý nhà trường phải hướng đến các mục tiêu chất lượng (chất lượng chung và chất lượng từng lĩnh vực, từng vị trí công tác), tuân thủ chu trình: thiết lập chuẩn; đánh giá thực trạng theo chuẩn và nâng thực trạng lên ngang chuẩn. Tác giả Nguyễn Lộc [36] chỉ rõ: “Tiếp cận chất lượng đòi hỏi tổ hợp các kỹ năng quản lý hiện đại như lập kế hoạch chiến lược, xây dựng nhóm, quản lý thay đổi, khích lệ nhân viên, khảo sát, phân tích thống kê,…”.

1.4.1.2. Quản lý cơ sở vật chất trường tiểu học theo tiêu chuẩn trường chuẩn quốc gia

Về bản chất, ý nghĩa của CSVC là phục vụ đào tạo (ở trường TH có thể hiểu ở góc độ dạy học). Quản lý CSVC và thiết bị theo tiêu chuẩn trường TH đạt chuẩn quốc gia cần đảm bảo ý nghĩa này. Chúng tôi phân tích khái niệm theo hướng đó.

Nếu như hoạt động quản lý nhà trường được xem như hệ thống những tác động có định hướng, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý, nhằm huy động tối ưu các nguồn lực để thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu giáo dục của nhà trường, thì CSVC và thiết bị phục vụ ĐT chính là một nguồn lực quan trọng trong đó.

Một mặt, quản lý CSVC phục vụ ĐT là mảng quan trọng nhất thuộc hoạt động quản lý hạ tầng vật chất - kỹ thuật của trường học, nằm trong hệ thống quản lý nhà trường nói chung. Mặt khác, đây là một mảng công tác thuộc hệ thống quản lý ĐT của nhà trường (cung cấp nguồn lực để thực hiện mục tiêu giáo dục của nhà trường). Quản lý CSVC phục vụ ĐT có thể xem là hệ thống con trong hệ thống quản lý ĐT hay là một tiểu hệ thống trong hệ thống tổng thể quản lý nhà trường. Sự vận hành hệ thống con (tiểu hệ thống) này cũng đòi hỏi phải có sự phối hợp hiệu quả nỗ lực của các cá nhân liên quan, tận dụng được tối ưu các nguồn lực nhằm đạt được các mục tiêu xác định, góp phần thực hiện mục tiêu chung.

Quản lý hạ tầng vật chất - kỹ thuật trường học nói chung hay quản lý CSVC phục vụ ĐT nói riêng đều rất phức tạp, bao gồm nhiều lĩnh vực công việc (Luận văn tiếp cận chủ yếu theo quan điểm này): qui hoạch xây dựng CSVC; lập kế hoạch xây dựng CSVC; xây dựng CSVC; khai thác sử dụng CSVC; cải tạo, sửa chữa CSVC; bảo quản, kiểm kê, kiểm toán, thanh lý CSVC (Thuật ngữ “xây dựng CSVC” được sử dụng trong các trường hợp cụ thể với các nghĩa: “xây dựng công trình” hoặc “tăng

cường thiết bị”). Các lĩnh vực công việc này, về tổng thể, có thể hình dung như các công đoạn trong chu trình quản lý. Vị trí của mỗi công đoạn phụ thuộc vào loại hình, chủng loại CSVC. Mục đích của từng công đoạn giúp phân biệt chúng với nhau. Qui hoạch xây dựng CSVC nhằm đưa ra định hướng phát triển, định hướng chiến lược xây dựng CSVC. Lập kế hoạch xây dựng CSVC là xác định nội dung các giai đoạn đầu tư. Xây dựng CSVC là quá trình thực hiện kế hoạch đầu tư đã được phê duyệt. Khai thác sử dụng CSVC là đưa các công trình, thiết bị vào sử dụng, tận dụng tiềm năng, công suất CSVC. Cải tạo, sửa chữa CSVC nhằm biến đổi CSVC cho phù hợp với yêu cầu mới hoặc khắc phục sự xuống cấp, hư hỏng. Bảo quản, kiểm kê, kiểm toán, thanh lý CSVC là những công việc nhằm duy trì tuổi thọ, chất lượng của CSVC, đánh giá tình trạng CSVC hoặc loại bỏ CSVC (bán, hủy, dịch chuyển). Mỗi công đoạn này đều có mục tiêu, nội dung, yêu cầu quản lý cụ thể được xác định trên cơ sở mục tiêu, nhiệm vụ của nhà trường, đặc tính của chủng loại CSVC. Để thực hiện từng công đoạn này không thể thiếu hoạt động quản lý với những nghiệp vụ thích hợp.

Từ góc độ khác, quản lý CSVC phục vụ ĐT của trường là quản lý hoạt động của các khu vực chuyên môn khác nhau (thư viện; phòng thiết bị; phòng học,…). Mặc dù có nhiều điểm chung, nhưng mỗi khu vực lại có yêu cầu quản lý mang tính đặc thù riêng.

Theo quan điểm chất lượng, quản lý CSVC phục vụ ĐT được nhìn nhận là quản lý hàng loạt các quá trình công việc. CSVC của trường vốn rất đa dạng, nhiều chủng loại. Số lượng các qui trình công việc cần cho lĩnh vực quản lý CSVC của trường rất lớn. Ngoài một số qui trình được qui định chung trong các văn bản pháp qui của Nhà nước như qui hoạch xây dựng, quản lý dự án đầu tư, đấu thầu thiết bị, thanh lý tài sản, phần lớn các qui trình khác do các trường tự xây dựng. Tùy thuộc vào mô hình tổ chức, mức độ phân cấp quản lý, chủng loại CSVC và sáng kiến quản lý của từng nhà trường, có thể có các qui trình như: quản lý xây dựng công trình, tăng cường thiết bị; bổ sung học liệu; nhập sách; duy tu, sửa chữa thiết bị, cung cấp vật tư thí nghiệm; cung ứng đồ dùng dạy học; quản lý, phân bổ, điều phối phòng học; quản lý công tác mượn sách; quản lý sử dụng nhà tập đa năng; quản lý đăng ký phòng ở học sinh,… Có những qui trình chỉ xây dựng riêng để quản lý một dự án, vận hành một phòng thí nghiệm hoặc bảo quản, bảo dưỡng một loại thiết bị cụ thể. Có các quá trình công việc đã được qui định chung trong văn bản pháp qui của Nhà nước, khi triển khai vào từng trường lại được cụ thể hóa bằng các qui trình phù hợp với quan hệ quản lý theo phân cấp của nhà trường.

Trên đây phân tích khái niệm quản lý CSVC phục vụ ĐT của nhà trường theo các góc nhìn khác nhau. Về toàn bộ, quản lý CSVC phục vụ ĐT của nhà trường TH nhằm:

- Đáp ứng tối đa trong khả năng có thể nhiệm vụ giáo dục của nhà trường, các nhu cầu hiện tại và những thay đổi của hoạt động ĐT và NCKH;

- Kế hoạch hóa và qui trình hóa, thể chế hóa công việc nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho đối tượng phục vụ, đặc biệt là HS;

- Đầu tư, phân bổ, điều phối hợp lý, kịp thời CSVC cho các nhiệm vụ cụ thể trong điều kiện nguồn lực thực tế và tiết kiệm nguồn lực;

- Đảm bảo các tính năng kỹ thuật và không ngừng nâng cao hiệu quả khai thác sử dụng CSVC, năng lực phục vụ ĐT và NCKH;

- Duy trì sự bền vững, tính năng, công năng của CSVC;

- Thực hiện an toàn, vệ sinh môi trường trong quản lý, sử dụng CSVC;

- Cung cấp tư liệu, dữ liệu cần thiết cho việc quản lý các lĩnh vực, các khâu, công đoạn trong chu trình quản lý của nhà trường;

- Góp phần tạo dựng hình ảnh mẫu mực về nhà trường.

Quản lý CSVC phục vụ ĐT, suy cho cùng, nhằm góp phần thực hiện mục tiêu chung của nhà trường: đảm bảo, nâng cao chất lượng ĐT. Vì vậy, để quản lý hiệu quả lĩnh vực này cần xem xét các mối quan hệ của nó trong hoạt động ĐT của trường.

Ở phạm vi nghiên cứu của đề tài, tôi hiểu quản lý cơ sở vật chất theo tiêu chuẩn trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia là sự tác động có định hướng, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến các đối tượng tham gia xây dựng, sử dụng và bảo quản nguồn lực vật chất hướng tới đạt tiêu chuẩn CSVC của trường chuẩn quốc gia, góp phần thực hiện có chất lượng, hiệu quả mục tiêu giáo dục của nhà trường.

1.4.2. Quản lý cơ sở vật chất trong hoạt động của nhà trường

Với đặc thù phức tạp của lĩnh vực quản lý CSVC phục vụ các hoạt động đặc biệt hoạt động chính trị hàng đầu là dạy học, giáo dục, từ nhiều góc độ nhận thức (sư phạm; kinh tế; cấu trúc tổ chức; chức năng; mục đích quản lý), các trường đã sử dụng nhiều tiếp cận quản lý khác nhau để quản lý lĩnh vực này. Dưới đây là một số tiếp cận cơ bản.

1.4.2.1. Quản lý theo phân định lĩnh vực công tác của nhà trường

Quản lý CSVC được xem là một lĩnh vực công tác được phân định theo chức năng, nhiệm vụ của bộ máy tổ chức nhà trường. Các trường thường phân chia các lĩnh vực quản lý như sau: Tổ chức cán bộ; Dạy học; Giáo dục; Khoa học công nghệ - kỹ thuật; Quản lý HS; Kế hoạch - Tài chính; Quản trị thiết bị; Hành chính - Tổng hợp; Hợp tác.

Với tiếp cận này, mối quan hệ giữa quản lý CSVC với các lĩnh vực quản lý khác được thể hiện thông qua chức năng, nhiệm vụ của bộ phận đảm trách trong nhà trường. Việc cung ứng CSVC và thiết bị thường được thực hiện theo chế định và kế hoạch đã định.

Quản lý theo lĩnh vực công tác là tiếp cận truyền thống, phổ biến của các trường nói chung và nhà trường TH nói riêng. Lợi ích là đơn giản về tổ chức, phù hợp với cấu trúc tổ chức hành chính của nhà trường; có sự phân chia nhiệm vụ, trách nhiệm rạch ròi; thuận lợi cho điều hành chung. Song, ở đây cũng tiềm ẩn nhiều bất lợi. Khi các chức năng “nằm trong tiềm thức mỗi người, điều này đã phá vỡ tinh thần hợp tác vì mục đích chung. Khi các nhóm chức năng thu hẹp tầm nhìn, họ đã đánh mất cái nhìn tổng thể hệ thống” [36]. Quá nhấn mạnh đến chức năng, nhiệm vụ có thể giảm tính linh hoạt của đội ngũ, hạn chế tính hợp tác giữa các bộ phận, dẫn đến hạn chế về hiệu quả quản lý, đặc biệt trong việc tổ chức khai thác sử dụng CSVC và thiết bị.

1.4.2.2. Quản lý theo nhiệm vụ giáo dục

Tiếp cận quản lý theo nhiệm vụ giáo dục (hay còn gọi là theo chương trình giáo dục) nhìn nhận lĩnh vực quản lý CSVC như một trong các lĩnh vực hỗ trợ, phục vụ. Quản lý dạy học trong trường TH được xem là hoạt động chính yếu. Hoạt động quản lý CSVC trong trường hợp này chịu sự chi phối trực tiếp của các yêu cầu tổ chức dạy học.

Về lý thuyết, quản lý CSVC được tổ chức và thay đổi theo yêu cầu hoạt động dạy học của nhà trường. Điều kiện lý tưởng là mọi lực lượng liên quan đến nhiệm vụ giáo dục đều nhận thức đầy đủ về công việc của mình, đều biết làm thế nào để chương trình giáo dục có chất lượng và làm đúng như vậy. Nhưng, thực tế thường không như mong muốn. Hợp tác giữa đơn vị giảng dạy và các bộ phận quản lý CSVC và thiết bị được nhận thức như mối quan hệ giữa người yêu cầu - đặt hàng (người dạy) và người đáp ứng - cung ứng (người phục vụ). Mối quan hệ này lỏng hay chặt, phần lớn phụ thuộc vào mức độ quan tâm nhiều hay ít của người yêu cầu đến việc sử dụng CSVC và thiết bị. Vấn đề đổi mới phương pháp dạy học sẽ không tác động trực tiếp đến đội ngũ phục vụ, mà thông qua đội ngũ giảng dạy. Sự thay đổi về đầu tư hay tổ chức khai thác sử dụng CSVC và thiết bị được thực hiện theo đặt hàng của các đơn vị giảng dạy. Về nhược điểm của tiếp cận này, chuyên gia trong lĩnh vực chất lượng Sallis Ed. đã viết: Sự phân biệt đội ngũ giảng dạy với đội ngũ hỗ trợ, giữa các cấp khác nhau trong hệ thống cấp bậc truyền thống thường cản trở sự mở rộng cần thiết của quá trình hợp tác tổ đội là các chướng ngại vật cần phải phá bỏ.

1.4.2.3. Quản lý theo nghiệp vụ chuyên môn hẹp

Như đã trình bày, quản lý CSVC là một chu trình bao gồm nhiều công đoạn với rất nhiều công việc có mối quan hệ đan xen từ đơn giản đến phức tạp. Mỗi công việc có yêu cầu chuyên môn đối với người được giao thực hiện và được quản lý theo chế định, đòi hỏi qui trình, thao tác nghiệp vụ chặt chẽ nhằm đảm bảo tính tiêu chuẩn của đối tượng quản lý, hiệu quả kinh tế của quản lý. Ví dụ, việc lập qui hoạch xây dựng CSVC và thiết bị, lập hoặc thực hiện dự án xây dựng công trình hay đấu thầu, chọn thầu cung cấp thiết bị đều cần có nghiệp vụ chuyên môn liên quan và tuân thủ quy chế chung. Khi đưa vào khai thác, sử dụng, các bộ phận phục vụ lại phải thiết kế dịch vụ tuân thủ yêu cầu nghiệp vụ chung (kể cả việc đảm bảo an toàn vận hành).

Cách quản lý từng loại công việc trong lĩnh vực quản lý CSVC và thiết bị theo nghiệp vụ qui định như vậy có thể gọi là tiếp cận theo nghiệp vụ chuyên môn hẹp.

Tiếp cận quản lý CSVC theo nghiệp vụ chuyên môn hẹp được sử dụng trong mọi loại hình tổ chức nhà trường. Bởi đây là cách quản lý cần thiết đối với mọi tổ chức hành chính sự nghiệp nhằm đảm bảo hiệu quả đầu tư, chống thất thoát, lãng phí. Song, quá đề cao chuyên môn hẹp, tuân thủ mọi yêu cầu quản lý đối với một cơ quan hành chính sự nghiệp, nhưng không tính đến đặc thù của đối tượng quản lý như đã trình bày có thể hạn chế hiệu quả phục vụ của các hạng mục CSVC và thiết bị. Bởi hiệu quả kinh tế trong đầu tư CSVC và thiết bị được đánh giá trước hết qua hiệu quả vận hành hoạt động giáo dục và dạy học trong nhà trường. Hiệu quả vận hành hoạt động này cần ở các chủ thể quản lý CSVC và thiết bị.

1.4.2.4. Quản lý theo tính chất dịch vụ

Hệ thống CSVC của trường là tổ hợp phức tạp các khu vực quản lý có nhiệm vụ chuyên môn khác nhau (Thư viện; Phòng thiết bị,…). Mỗi khu vực cung cấp các dịch vụ có tính chất giống nhau hoặc gần nhau. Do vậy, trong mỗi nhà trường, từng khu vực dịch vụ thường có bộ máy quản lý và chức năng, nhiệm vụ riêng.

Quản lý CSVC theo tính chất dịch vụ có nhiều ưu điểm nhờ tập trung được nguồn lực phù hợp với từng loại hình dịch vụ, giúp tăng tính chuyên sâu và phát triển kỹ năng cho nhân viên. Tuy nhiên, “tính độc lập tương đối” của các bộ phận dịch vụ trong nhà trường, nếu không được tính đến, có thể dẫn đến sự tồn tại như những “ốc đảo” của các khu vực này trong môi trường hoạt động chung của nhà trường. Hệ quả là các dịch vụ được thiết kế có thể theo đúng tiêu chuẩn nghiệp vụ đối với loại hình dịch vụ đó, nhưng không được người tiêu dùng (đối tượng phục vụ) hưởng ứng. Vấn đề là làm thế nào để phát huy ưu điểm và hạn chế những trở ngại phát sinh từ cách quản lý này.

Luận văn dựa vào tiếp cận nhiệm vụ giáo dục và lĩnh vực công tác của nhà trường là hoạt động dạy học. Cơ sở vật chất được quản lý theo nội dung để thực hiện tốt sự phục vụ hoạt động dạy học và góp phần cho nhà trường đạt chuẩn quốc gia.

1.4.3. Nội dung quản lý cơ sở vật chất theo tiêu chuẩn trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia

Quản lý cơ sở vật chất là một trong những nhiệm vụ quản lý hàng đầu của người Hiệu trưởng. Đó là quá trình tác động có tổ chức, có tính định hướng nhằm làm cho thiết bị dạy học được sử dụng đúng mục đích đồng thời đảm bảo cho việc đầu tư, khai thác, sử dụng cơ sở vật chất và thiết bị phát triển phù hợp với mục tiêu đào tạo của mỗi nhà trường.

Cơ sở vật chất là một lĩnh vực vừa mang tính kinh tế - giáo dục, vừa mang tính khoa học - giáo dục nên việc quản lý phải tuân thủ các yêu cầu chung về quản lý kinh tế, khoa học đồng thời phải tuân theo các yêu cầu quản lý chuyên ngành giáo dục.

Quản lý cơ sở vật chất trong trường TH bao gồm 3 nội dung cơ bản:

(1) Quản lý trang bị cơ sở vật chất phù hợp với nội dung và tiêu chuẩn trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia;

(2) Quản lý sử dụng cơ sở vật chất để nâng cao chất lượng DH;

(3) Quản lý bảo quản tốt các cơ sở vật chất đã được trang bị.

Các nội dung trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong việc tổ chức sử dụng có hiệu quả các cơ sở vật chất để nâng cao chất lượng dạy học là nội dung cơ bản và cũng là mục đích cuối cùng của công tác quản lý cơ sở vật chất trong nhà trường.

1.4.3.1. Quản lý trang bị cơ sở vật chất

Để nâng cao chất lượng dạy học đáp ứng yêu cầu đổi mới chương trình giáo dục phổ thông hiện nay nói chung và góp phần giúp trường TH đạt chuẩn quốc gia nói riêng, việc trang bị cơ sở vật chất phải được thực hiện một cách toàn diện và cân đối cho từng hoạt động giáo dục. Để thực hiện điều đó, người Hiệu trưởng phải nắm được một số vấn đề về lý luận và thực tiễn về hệ thống cơ sở vật chất nói chung, hệ thống thiết bị dạy học nói riêng, như vai trò của thiết bị dạy học trong quá trình dạy học, phương pháp sử dụng thiết bị dạy học và các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng thiết bị dạy học, đồng thời người Hiệu trưởng phải có chiến lược, lộ trình xây dựng hệ thống cơ sở vật chất và thiết bị dạy học đáp ứng yêu cầu dạy học theo tiêu chuẩn trường chuẩn quốc gia. Một khi công tác trang bị cơ sở vật chất và thiết bị dạy học được quan tâm đúng mức và triển khai thường xuyên, kịp thời thì sẽ phát huy được tác dụng trong việc nâng cao chất lượng giáo dục trong quá trình DH.

Xem tất cả 125 trang.

Ngày đăng: 21/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí